Di tích lịch sử

Phú Thọ

Chùa Phúc Ân

Chùa Phúc Ân được xây dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ thứ 18), đại trùng tu vào năm 1972. Hiện nay, tòa Tam bảo chùa Phúc Ân vẫn giữ nguyên dáng vẻ kiến trúc cổ với mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Khẩu gồm: Tòa Tiền đường, hai dãy tả, hữu hành lang và tòa Chính điện. Tòa Tiền đường 5 gian 2 dĩ, 6 hàng chân cột với tổng số 40 cột, có 4 bộ vì kèo giữa kết cấu theo kiểu chồng đấu cột đội con lợn, hai vì đốc kết cấu chồng, giá chiêng. Bộ khung gỗ được liên kết cột xà - kẻ chuyền chắc khỏe, đóng bén bào trơn, các chân cột kê trên đá tảng, mái lợp ngói mũi thời Lê. Nét độc đáo ở tòa Tiền đường là tạo mái hiên rộng hơn để chắn nắng, gió mưa, chỉ có 2 đầu đao cong mái trước, phần cổ diêm làm song bưng ván, hệ tường xây gạch nhưng để hàng cột hai đốc chạy dài thông với hành lang nối thượng điện tạo sự bề thế cho ngôi chùa khi đứng ở mọi hướng. Hai dãy tả, hữu hành lang chạy song song nối Tiền đường và Thượng Điện thực chất bên trong mỗi bên 3 gian, song nhìn từ phía sau lại là 6 gian dài thông suốt. Mỗi dãy có 3 hàng chân cột tổng số cả dãy là 18 cột gỗ. Kiến trúc ở đây cho thấy sự tính toán chính xác, khéo léo của nghệ nhân xưa: Với 3 hàng cột đứng đất và một hàng chân cột đội trên xà ngang để tạo thành hai mái nhà cân xứng mà diện tích sử dụng không bị hẹp, lòng nhà được mở rộng nhờ các kẻ truyền liên tiếp đó là kỹ thuật truyền thống của Việt Nam. Tòa Chính điện làm song song với Tiền đường, được bố trí cao hơn qua cách làm giật cấp. Thượng điện gồm 3 gian, 5 hàng chân cột với 18 cột gỗ, hệ mái độc đáo theo kiểu "Tiền tam, hậu nhị", tường hồi bít đốc, phần cổ diêm của mái trước của mái được làm chấn song con tiện thông thoáng, 4 vì kèo kiểu thức "Thượng giá chiêng, chồng rường - hạ kẻ", trần lát ván gỗ lim tiêu biểu cho truyền thống nhà cổ Việt Nam. Chùa Phúc Ân hiện có 22 pho tượng thờ được bài trí hai bên trong tòa Tiền đường và các lớp tượng trên Thượng điện giật cấp trong tòa Chính điện. Trong đó, tiêu biểu là bộ tượng Tam thế mang phong cách nghệ thuật tạo tác tượng tròn thế kỷ 18. Chùa Phúc Ân hiện bảo lưu hệ thống di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu: Chuông đồng "Phúc Ân tự trung", cao 0,90m, đường kính 0,50m; Khánh đồng dài 1,05m, rộng 0,90m. Chuông và khánh được đúc vào năm Minh Mệnh tam thập tam niên -năm 1832, quai chuông và khánh được tạo thành những vân kỷ hà, khánh được tạo dáng hình một chiếc lá đề khổng lồ. Trên thân chuông và khánh khắc chữ Hán ghi tên những người công đức tu sửa chùa Phúc Ân. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LÂM THAO

Phú Thọ 2358 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hạ Bì Trung

Đình Hạ Bì Trung nằm trong hệ thống các di tích lịch sử thờ Đức Tản Viên Sơn thánh, Cao Sơn, Quý Minh ở vùng ven sông Đà và vùng trung du Bắc Bộ. Đình được làm bằng tranh, tre, nứa lá ngay sau khi dân làng chuyển từ hữu ngạn về tả ngạn sông Đà vào cuối thế kỷ 18. Đến năm Đinh Hợi năm 1827, ngôi đình được xây dựng bằng gỗ đinh, lim, tường xây, ngói lợp trên một thế đất bằng phẳng, nhìn theo hướng Đông Nam. Bên cạnh Tản Viên Sơn tam vị, Đình Hạ Bì Trung còn thờ Thành hoàng làng đã có công khai dân, lập ấp, lập nên trang Hạ Bì; cùng phối thờ còn có Bản thổ long cung, Tiên Dung công chúa, Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp – người có công truyền bá chữ Hán vào Việt Nam. Sau một thời gian dài với những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhiều hạng mục công trình của đình đã bị hư hỏng. Những nét truyền thống còn lưu giữ lại được đó là hệ thống dui mè, hoành, bộ câu đầu, 8 cột cái, ban thờ ba vị thánh Tản Viên Sơn, bát nhang, hai sáp cắm nến, ống hoa… và nghi thức tế lễ vẫn được thực hiện theo các nghi lễ truyền thống. Năm 2007, được phép của ủy ban nhân dân tỉnh, nhân dân trong làng đã đóng góp, công đức trên 500 triệu đồng tu bổ và phục dựng lại một số hạng mục công trình trong di tích. Ngày 13-3, bà con nhân dân trong xã Xuân Lộc (Thanh Thủy) và du khách thập phương đã vui mừng đón bằng công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia cho đình Hạ Bì Trung. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 2354 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử văn hóa chùa Hoàng Long

Di tích lịch sử văn hóa chùa Hoàng Long, xã An Đạo - huyện Phù Ninh là ngôi chùa cổ có niên đại hơn 300 năm, là một trong những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, nơi hội tụ những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tâm linh vượt trội, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định ngày 19/01/2001, đã được chính quyền các cấp từ tinh, huyện, đền cơ sở có nhiều chính sách quan tâm, tạo cơ chế đề Ban trị sự phật giáo tỉnh cử sư thầy về trực tiếp quản lý, nhiều chính sách đầu tư tu bổ, trùng tu, tôn tạo, xây mới nhiều hạng mục công trình. NGUỒN: TỈNH PHÚ THỌ

Phú Thọ 2578 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đạm Xuyên

Đình Đạm Xuyên tọa lạc ở xã Tiền Châu thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc. Đình thờ 3 vị thần là Cao Bi Hùng Thánh Đại Vương; Dương Uy Phấn Vũ Đại Vương và Thủy Tinh Thần nữ công chúa. Đình nằm trên khu đất rộng khoảng 1.000m², có diện tích xây dựng là 220m², hướng Tây Nam. Ngôi đình gồm ba phần chính: đại đình, hậu cung và hậu tế, tạo thành hình chữ “Công”, một kiểu kiến trúc đặc trưng phổ biến trong các đình chùa cổ của Việt Nam. Đình được xây bằng gạch vuông cổ, với mái lợp ngói mũi hài và đầu đao được tạo dáng rồng cuốn, thể hiện sự uy nghiêm và truyền thống. Hệ thống cửa bức bàn có chấn song con tiện, giúp không gian bên trong ngôi đình luôn thông thoáng. Tòa đại đình (tiền tế) có 5 gian, là nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng; tòa hậu tế có 3 gian, và hậu cung có 2 gian, là nơi thờ cúng chính. Tất cả các cột và vì kèo trong đình đều được làm bằng gỗ lim, loại gỗ nổi tiếng với độ bền cao, mang lại sự vững chắc cho công trình. Nghệ thuật chạm khắc trên gỗ của đình rất công phu và tinh xảo, lấy đề tài từ tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng, biểu tượng cho sự thịnh vượng và quyền uy. Đặc biệt, các nét chạm trổ ở 4 “cổn” theo kiểu “lộng” với hình rồng cuốn được thực hiện một cách mềm mại, uyển chuyển, thể hiện rõ thần thái của rồng đang cuộn mình bay lên, tạo nên một hình ảnh sống động và mạnh mẽ. Ngoài ra, một số chi tiết chạm khắc khác trên các bức thuận và đầu kèo như cảnh “sư tử vờn cầu” và “tùng lộc mai điểu” mang đến sự sinh động, bay bổng, thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân. Những chi tiết này không chỉ là điểm nhấn thẩm mỹ mà còn phản ánh giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống, góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản kiến trúc đình làng Việt Nam. Sự tồn tại của đình Đạm Xuyên là minh chứng cho sự sáng tạo và tâm huyết của người xưa, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa dân tộc. Hiện tại, đình làng Đạm Xuyên vẫn còn bảo tồn được ba cỗ ngai thờ, gồm một ngai bà và hai ngai ông, tất cả đều được sơn son thếp vàng tinh xảo. Trong tòa đại đình, ba câu đối cổ có niên đại hàng trăm năm vẫn được gìn giữ. Đình cũng có hai cỗ kiệu bát cống, trong đó một cỗ thuộc thời Lê và một cỗ thuộc thời Minh Mạng. Đáng chú ý, hiện vật bằng đá còn lại là một tấm bia được lập vào năm Tự Đức 1870, ghi chép về sự tích của ba vị thần được thờ tại đình. Ngoài ra, đình còn lưu giữ tám đạo sắc phong, phần lớn từ thời Nguyễn (1810-1924). Những hiện vật này không chỉ có giá trị lịch sử mà còn phản ánh đậm nét văn hóa và tín ngưỡng của cộng đồng dân cư qua nhiều thế kỷ. Các hiện vật tại đình làng Đạm Xuyên không chỉ là biểu tượng của truyền thống và sự tôn kính mà còn là minh chứng cho sự liên tục của văn hóa địa phương trong dòng chảy lịch sử.

Phú Thọ 2663 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Chùa Biện Sơn - Yên Lạc

Biện Sơn là ngôi chùa đẹp của huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc, được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1996, tọa lạc trên một gò đất cao rộng khoảng 1.5 ha. Xưa kia chùa có tên là Độc Nhĩ, người dân địa phương hay gọi là Núi Biện với dáng quy xà hợp hình rất kỳ lạ. Sử sách còn ghi, vào năm Thành Thái thứ 16, chùa đã được làm với kiến trúc kiểu chữ Môn. Do biến thiên của thời gian, ngôi chùa không còn giữ được kết cấu kiến trúc cổ ban đầu mà được trùng tu, tôn tạo theo kiểu chữ Đinh, kiểu kiến trúc mang đậm phong cách triều Nguyễn gồm 2 tòa bái đường và chính điện. Xung quanh ngôi chùa cảnh vật yên ả, hữu tình, dưới những cây cổ thụ nhiều năm tuổi bao phủ một màu xanh kỳ vĩ. Từ tỉnh lộ 303 đi vào, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầu tiên của ngôi chùa, đó chính là Tam quan. Tam quan được thiết kế theo kiểu trùng diên ba tầng 12 mái và được trang trí hết sức cầu kỳ, tinh xảo. Từ Tam quan có con đường nhất chính đạo gồm các bậc đá được xây theo một triền dốc thoai thoải. Chùa được xây dựng theo thế nội công, ngoại quốc. Trong khuôn viên chùa, có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường ở phía sau làm thành một khu hình chữ nhật bao quanh lấy nhà tiêu hương. So với các ngôi chùa khác trong vùng, chùa Biện Sơn còn bảo lưu được một hệ thống tượng pháp hơn 40 pho và còn lưu giữ được nhiều bảo khí và cổ vật có giá trị. Các pho tượng ở đây được tạo tác rất đẹp, sơn son thếp vàng lộng lẫy, chau chuốt tỉ mỉ, mang đậm phong cách tạo tác thời Lê. Một điểm nổi bật trong công trình kiến trúc phật giáo ở chùa Biện Sơn là tòa Bảo tháp bằng đồng nguyên khối nặng 12 tấn, là một trong số Bảo tháp lớn nhất trong cả nước, lưu giữ nhiều xá lợi Phật, đặc biệt là tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng ngọc xanh nguyên khối…Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã viên tịch và nhà tăng, nơi ở của các nhà sư. Nằm ngay sau tòa thượng điện, chúng ta được chiêm ngưỡng một kiến trúc vô cùng độc đáo nữa, đó chính là tháp quay hay còn có tên gọi khác là cối kinh. Ngày nay, chùa Biện Sơn trở thành điểm dừng chân, tham quan, nghiên cứu của đông đảo du khách trên lộ trình tìm về với cội nguồn dân tộc, là nơi diễn ra lễ hội sông Loan - núi Biện đậm đà bản sắc dân tộc, thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách, phật tử gần xa về chiêm bái, thưởng ngoạn. Nguồn: visitvinhphuc

Phú Thọ 3252 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Đền Thánh Mẫu

Di tích lịch sử đền Thánh Mẫu nằm tại tổ dân phố Minh Lương, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đền Thánh Mẫu có tổng diện tích là 6.705m2, trong đó diện tích xây dựng khu thờ tự là 3.114 m2 được khởi dựng từ lâu đời, kiến trúc hiện còn mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc xưa. Đền có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 5 gian 2 dĩ và hậu cung 3 gian. Bố cục tổng thể của di tích bao gồm: Cổng nghinh môn, hệ thống hàng rào, nhà tiền tế, nhà hậu cung, nhà tả vu, nhà hữu vu, nhà hóa vàng, hệ thống sân vườn nội bộ. – Cổng Nghinh môn: gồm lối đi chính và 02 lối đi phụ. Lối đi chính được hình thành bởi 02 cột đồng trụ lớn, cột đồng trụ, chân đắp lộc bình, đầu cột đắp quả giành và cánh phong bởi tứ phượng, thân được đắp chỉ nổi và viết chứ nho tại 03 mặt cột. Lối đi phụ gồm 02 lối đối xứng. Lối đi được hình thành bởi cột đồng trụ nhỏ và hệ thống tường rào, lối phụ được đắp 02 tầng mái đao cỡ nhỏ. – Nhà tiền tế: được xây dựng hình chữ nhất, kiểu kiến trúc tầu đao lá mái, con chồng, giá chiêng. Toàn nhà được làm bằng gỗ, hệ thống cửa bức bàn, mái lợp ngói mũi hài, công trình có giá trị văn hóa nghệ thuật rất đẹp. – Nhà hậu cung: được xây dựng hình chữ đinh, kiểu kiến trúc tầu đao lá mái, bít đốc phần hậu cung, bên trong các cấu kiện bằng gỗ kiểu con chồng, giá chiêng. – Bia lịch sử: được xây dựng những năm 1992, trên đó ghi sơ bộ lịch sử hành trạng của Thánh mẫu và lịch sử ngôi đền, bia cao 1,8m, trên bia khắc chữ màu vàng một mặt trước. Chân bia ngự trên để là lưng cụ rùa, phần đế bia làm bằng đá thanh hóa vuông. – Nhà tả vu và nhà hữu vu: công trình được xây dựng khá lâu, công trình xây theo kiểu chữ nhất. Đền Thánh Mẫu là nơi thờ Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa. Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hoà thuộc di duệ họ Triệu, ngọc phả ghi lại “Thánh Mẫu thuộc dòng dõi Vua Hùng Vương thứ 18” và đã từng làm thứ phi vua Vệ Dương Vương. Từ khi họ Triệu mất nước, bà phải trốn tránh quân Hán, sống lưu lạc rồi đến cư ngụ ở chùa Quảng Hưu, xã An Lãng, huyện Chu Diễn; nay là xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên. Bà vốn là người con gái xinh đẹp tài sắc vẹn toàn. Bà có 5 người con trai, cả 5 đều có sức tài hùng dũng, chí khí hơn hẳn người thường, lại tinh thông võ nghệ, giỏi văn chương, ý chí như biển rộng. Tương truyền, 5 người con của bà được sinh ra cùng một bọc do giấc mộng tình với vị thần Vịt ở xứ này, nở ra từ 5 quả trứng. Cũng bởi vậy, Bà đặt tên cho 5 con đều có chữ “áp Lang”, nghĩa là chàng Vịt. Sau này Thánh Mẫu hóa tại gò Minh Lương vào ngày 10-11 âm lịch và được nhân dân mai táng ở khu Minh Lương (Tổ dân phố Minh Lương). Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, 5 người con của Thánh Mẫu đã khôn lớn, năm anh em đều đến hội với Bà Trưng ở cửa sông Hát, đem theo hơn 1000 người là dân bản địa. Được Hai Bà Trưng giao nhiệm vụ đốc xuất thủy quân, lục quân đánh thành Luy Lâu, năm vị Áp Lang chỉ huy quân đại phá một trận quyết liệt, Thái thú Tô Định thua to phải chạy về nước. Do lập được nhiều chiến công hiển hách nên cả 5 vị đều được Hai Bà Trưng ban thưởng, phong chức tước, trở thành 5 vị Đại Vương, phong mẹ của 5 anh em là “Quốc mẫu hoàng hậu công chúa”. Nhờ sự giúp sức của năm anh em chàng Vịt và cùng nhiều các vị tướng tài giỏi khác. Chỉ trong thời gian ngắn Hai Bà đã thu phục được 64 thành trì. Bà Trưng Trắc xưng vương. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và các tướng sỹ, với sự giúp sức của nhân dân cả nước thắng lợi rực rỡ, giang sơn trở lại thái bình. Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, hiệu là Trưng Nữ Vương, các tướng sỹ đều được phong thưởng. Khi giặc Hán trở lại cướp nước ta một lần nữa, dưới sự chỉ huy của Hai Bà Trưng, năm vị Áp Lang cùng các tướng đã chiến đấu rất dũng cảm song thế giặc mạnh nên quân ta chống cự không nổi. Hai Bà bại trận tại Cấm Khê, 5 vị tướng từ trong vòng vây của quân thù đã mang được thi hài Hai Bà an táng ở Hi Sơn (thuộc làng He, phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên), năm Áp Lang chạy về bản ấp tuẫn tiết để bảo toàn khí tiết. Ghi nhớ công lao của năm vị Áp Lang cùng thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa, nhân dân An Lãng đã lập đền, miếu để thờ cúng. Thời Vua lê Thánh Tông năm thứ 12 niên hiệu Hồng Đức (1460-1497) phong sắc cho Thánh Mẫu và 5 vị thần được thờ: Xã An Lãng phân thành xã Xuân Lãng, xã Hợp Lễ thôn Minh Lương cùng phụng sự Thánh Mẫu và 5 vị thần. Về sau, các triều vua đều gia ban mỹ tự và chuẩn cho tứ xã (Yên Lan, Xuân Lãng, Minh Lương, Hợp Lễ) phụng sự các vị. Bà Triệu Thị Khoan Hoà tuy không trực tiếp đứng dưới cờ của Hai Bà Trưng, nhưng bằng sự giáo dưỡng của Bà, năm người con trai đã trở thành những vị tướng lĩnh tài giỏi và hiếu nghĩa giúp Hai Bà Trưng giành được độc lập. Sau này Bà được nhân dân tôn xưng, lập đền thờ tự khi bà mất. Danh hiệu Mẫu của Bà được suy tôn từ trong số các nữ thần được thờ cúng trong một số làng xã tại Vĩnh Phúc. Trải qua các triều đại, Bà được truy phong ở hàng Thánh Mẫu năm Khải Định thứ 9 (1924) và sau này là “Thượng Đẳng Phúc Thần” được toàn dân thờ phụng, tưởng niệm với lòng thành kính. Hiện nay, tại thị trấn Thanh Lãng di tích thờ Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa và 5 vị Áp Lang là: Đền Thánh Mẫu (xếp hạng quốc gia) thờ Quốc mẫu Hoàng hậu công chúa Triệu Thị Khoan Hòa, đền Xuân Lãng (xếp hạng quốc gia) thờ Ô Mễ đại vương, đình Hợp Lễ (xếp hạng cấp tỉnh) thờ Quý Minh đại vương và miếu Yên Lang (xếp hạng cấp tỉnh) thờ Trình đình Áp Lang Nga hoàng đại vương, Giám sát Nhung vụ đại vương, Cương đoán đại lộ đại vương. Với tấm lòng thành kính, ghi nhớ công ơn các bậc tiền nhân, ngày 11-5-2017, Ban quản lý di tích lịch sử đền Thánh Mẫu, thị trấn Thanh Lãng đã làm lễ khởi công xây dựng bia tưởng niệm ngũ vị Đại Vương tại khu gò mối nơi tuẫn tiết của 5 vị tướng. Qua đó không chỉ góp phần tôn lên vẻ đẹp không gian, cảnh quan cho khu di tích mà còn góp phần bảo tổn, giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, giúp thế hệ hôm nay và mai sau luôn trân trọng tri ân công lao dựng nước và giữ nước của tổ tiên và ông cha ta. Nguồn: Sở văn hóa, thể thao và du lịch Vĩnh Phúc.

Phú Thọ 3117 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đào Xá

Đình Đào Xá thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy; thờ Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân). Đình Đào Xá được xây dựng vào thời vua Lê Gia Tông – Niên hiệu Đức Nguyên (1674-1675), kiến trúc kiểu chữ Nhất, một tòa 3 gian 2 dĩ, quay hướng chính Nam. Ngôi đình có cách đây trên 300 năm nhưng vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn giá trị của di tích. Về kiến trúc, chủ yếu bằng gỗ và nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ trên hệ thống kẻ (12 cái kẻ được chạm trổ cả hai mặt) với các đề tài: “Long mã phụng đồ”, “Tứ linh”, “Long cuốn thủy”, “Bánh trưng”, “Bánh giày Lang Liêu”; các điển tích:”Văn vương xuất liệp”,”Cao Biền tầm địa”,”Mả táng hàm rồng”,”Mẫu long huấn tử”,”Cao đế nhập quan”,”Lý ngư võng nguyệt”…Với những giá trị kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh xảo và quý giá, đình Đào Xá đã được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 13 tháng 3 năm 1974. Đền Đào Xá (Còn gọi là đền Tam Công) cách Đình Đào Xá về hướng Đông Bắc chừng trên 400m. Theo ngọc phả của đền thì nơi đây đã từng ghi dấu công cuộc trị thủy của Đức Hùng Hải Vương và là nơi Lý Thường Kiệt từng luyện tập thủy quân chống giặc Tống và là nơi manh nha khởi nguồn bài thơ thần nổi tiếng của Lý Thường Kiệt. Đền Đào Xá có kiến trúc kiểu chữ Tam. gồm ba tòa tiền tế, trung tế và hậu cung bố cục hài hòa, cân đối tạo dáng vẻ thanh nhã và vẫn uy nghiêm, thoáng đãng, sáng sủa mà vẫn trầm mặc, u tịch. Lễ hội Đào Xá được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ngày 21 tháng 11 năm 2016. Lễ hội Đào Xá mang tính tín ngưỡng của người Việt không thể tách rời giữa đình và đền được gắn liền với sự tích thờ Đức Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân) và vợ là bà Trang Hoa và ba vị đại vương con của Hùng Hải Công. Đình và đền Đào Xá còn thờ bà Quế Hoa công chúa họ Trần có công bày trò múa hát mua vui cho bà Trang Hoa trước khi sinh hạ ba vị Tam Công. Lễ hội đình, đền Đào Xá được tổ chức vào những ngày âm lịch trong năm: Ngày mồng 3 tháng Giêng mở lễ hội múa “Xuân Ngưu” (gọi là múa trâu), là điệu múa dân gian mang tính tín ngưỡng, mô phỏng lại trò mua vui (mang tính khôi hài) của bà Quế Hoa cho phu nhân Hùng Hải; ngày 27, 28, 29 tháng Giêng là Lễ hội rước voi; tháng ba tổ chức ngày lễ kỷ niệm ngày Đức thánh Phụ hóa và lễ kết chạ với làng Dậu Dương; tháng 4 làm lễ cầu yên; ngày mồng 5 tháng 5 kỷ niệm ngày sinh đức Thánh Phụ. Đặc biệt Đào Xá có lễ hội cầu tháng 7 được tổ chức từ ngày mồng 9 đến ngày 15 có tên gọi là: “Hiến thần phù vua Lý đánh giặc Tống”, với lễ hội bơi chải vào lúc nửa đêm diễn lại cảnh quân Lý Thường Kiệt đón quân thuyền của thần linh vào đền làm lễ cầu thần đặc sắc của vùng trung du mang đậm dấu ấn thời Hùng Vương. Ngày mồng 10 tháng 12 làng mở hội tế xuân, lễ tại đền thờ bà Quế Hoa và cũng là lễ thượng điền kết thúc vụ lúa chiêm duy nhất ở làng Đào Xá. Lễ hội Đào Xá chính là môi trường bền vững để nuôi dưỡng, bảo tồn những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp; để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đời sống tâm linh, nhu cầu giải trí tinh thần của các thế hệ người dân Đào Xá cùng cộng đồng gần xa. Sự gắn bó cộng đồng trên cơ sở các giá trị văn hóa truyền thống luôn bền vững, là cội nguồn sức mạnh đoàn kết đã được minh chứng qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 3820 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân

Tưởng nhớ công ơn của các bậc thủy tổ đã có công khai thiên lập quốc và nhằm quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh thời đại các vua Hùng và tưởng nhớ công ơn tổ tiên và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước, đền thờ cha Lạc Long Quân là một thiết chế văn hóa mới nằm trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng được khởi công xây dựng ngày 26-3-2007 tại đồi Sim, xã Chu Hóa (Việt Trì) và khánh thành vào ngày 29 tháng 3 năm 2009 đúng vào dịp lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm Kỷ Sửu. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, là tổ tiên của Bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp thật khó bèn từ biệt nhau chia 50 người con theo cha xuống biển, 49 người theo mẹ lên núi, suy tôn người con cả làm vua nối nghiệp là Hùng Vương. Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước làm 15 bộ. Nơi vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quan gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo. Tương truyền đã truyền cho nhau 18 đời đều gọi là Hùng Vương”. Đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đầu tư xây dựng mới đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo các văn hoa trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc... được thể hiện sinh động độc đáo đã mang lại nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền mà vẫn không mất đi sự cổ kính uy linh. Kiến trúc đền Lạc Long Quân bao gồm: Đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, tả vu, hữu vu, lầu hóa vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật với tổng diện tích đất là 13,79 ha. Đền chính: Diện tích xây dựng 210m2 kiến trúc kiểu chữ đinh, được làm bằng gỗ theo kiểu kiến chúc cổ truyền thống Tiền đường có 3 gian, 2 trái, 4 hàng chân. Hậu cung có 3 gian, 4 hàng chân, tường xây bít đốc sau, cửa bức bàn. Phía trước tiền đường là tiền tế có 1 gian 2 trái, 2 hàng chân. Cổng đền (nghi môn): Xây dựng theo kiểu kiến trúc truyền thống, cổng có 4 cột, cổng chính rộng 4,2m, cổng phụ rộng 2,05m. Cổng biểu tượng: Nằm ở phía trước phương đình, kết cấu cột bê tông cốt thép ốp đá có đục chạm khắc hoa văn. Phương đình: Nằm sau nghi môn, ở cấp sân II. Kết cấu làm bằng gỗ, mái chồng diêm, nền lát gạch Bát Tràng. Tả vu, hữu vu: Nằm ở cấp sân III, xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ truyền thống, nhà 5 gian, 2 hàng, chân diện tích xây dựng 54m2. Trụ biểu: Hai trụ nằm đối xứng hai bên trục chính, cao 9,2m. Kết cấu bằng bê tông cốt thép, ốp đá xanh được đục chạm họa tiết hoa văn chim lạc cách điệu. Lầu hóa vàng: Nằm ở hai bên phía sau đền chính. Kết cấu lầu được xây bằng đá khối, vữa xi măng, trụ bê tông cốt thép, mái dán ngói giả cổ. Đồ thờ tương tự đền Lạc Long Quân bao gồm: Cửa võng, hương án, giá chiêng, bát bửu, hoành phi, câu đối... được làm bằng chất liệu gỗ trụ, chạm khắc hoa văn, sơn son thiếp vàng. Đặc biệt phải kể đến là pho tượng thờ của Đức Tổ Lạc Long Quân. Tượng Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đúc bằng chất liệu đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá được gia công bằng đá khối có chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là 2 pho tượng tướng lĩnh hầu cận (Lạc hầu, Lạc tướng) có chiều cao 1,80m ở tư thế đứng, mỗi pho nặng 0,5 tấn. Đến Đền Hùng hôm nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ mẫu Âu Cơ - một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt. Nguồn: Báo Phú Thọ

Phú Thọ 3297 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình, đền, miếu Hạ, tỉnh Phú Thọ

Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ (thường gọi Đình là đình Hạ, gọi đền Hạ là miếu Ông và miếu Hạ là miếu Bà) được xây dựng ở một vị trí bằng phẳng, thoáng đãng thuộc xã Hương Nha, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Cụm di tích thờ Nữ tướng Xuân Nương và Thập bộ Thần quan đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định giành thắng lợi. Hiện, cụm di tích còn lưu giữ cuốn ngọc phả do Nguyễn Bính phụng soạn năm 1572 ghi lại hành trạng của các vị Thần trong di tích. 1. Đình Hạ: Được xây dựng trên một khu đất rộng, quay hướng Đông - Nam, trước cửa đình là ao và cánh đồng. Đình có kiến trúc chữ Đinh, Đại bái gồm 5 gian, 2 trái (hiện nay chỉ còn 5 gian) và Hậu cung 2 gian, được kết cấu 4 hàng chân cột gỗ, hiện nay chỉ còn 16 cột trong có 8 cột cái và 8 cột quân. 2. Đền Hạ (Miếu Ông ): Được xây dựng trên một gò đất cao, quay hướng Đông - Nam, phía trước và bên phải đền là ao (gọi là hồ bán nguyệt), kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm 5 gian thờ dọc, cửa mở ở phía đầu hồi, được đắp theo kiểu táp môn có 3 cửa vòm và hai cột đồng trụ đắp hình quả dành. Đại tự trước cửa đình ghi ba chữ “Tối linh từ”. 3. Miếu Hạ (Miếu Bà): Được xây dựng trên cùng khu đất Đển Hạ, quay hướng Đông - Nam, phía trước và phía sau là ao hồ, kiến trúc kiểu 3 gian thờ dọc, dài 5,10m, rộng 4,80m, gồm có 16 cột gỗ (8 cột cái, 8 cột con). Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ là một quần thể di tích có giá trị về mặt lịch sử và nghệ thuật. Đặc biệt, cụm di tích còn lưu giữ được nhiều hiện vật quí có giá trị như: Sắc phong, ngọc phả, 3 cỗ ngai thời, 2 cỗ kiệu, sưu tập bát chén, lọ lục bình, mâm sứ và nhiều đồ thờ có giá trị. Lễ hội truyền thống được bảo tồn và duy trì tại cụm di tích vào ngày mồng 10 tháng Giêng hàng nam với nhiều trò diễn, trò chơi dân gian, đặc biệt là lễ hội cầu trâu. Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia ngày 28/12/2001. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Phú Thọ 2792 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Mẫu Âu Cơ

Nằm trên vùng đất địa linh nhân kiệt (xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ), Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình lịch sử văn hoá đặc biệt, là biểu tượng của tinh thần yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc. Hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam. Khi Ngọc Nương phu nhân sinh nàng Âu Cơ thấy có mây lành che chở, hương thơm toả ngát khắp nơi, là điềm “Tiên nữ giáng trần”. Lớn lên Nàng Âu Cơ rất xinh đẹp, “So hoa hoa biết nói, so ngọc, ngọc ngát hương”, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Sau khi kết duyên, Lạc Long Quân đưa Âu Cơ từ động Lăng Sương về núi Nghĩa Lĩnh, Âu Cơ trở dạ sinh được một bọc trăm trứng nở thành một trăm người con. Khi các con lớn lên Lạc Long Quân nói với bà Âu Cơ “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khó mà hoà hợp...bèn chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển để lưu truyền được lâu dài, về sau tất cả các con đều hoá thần. Trong 50 người con theo mẹ thì người con đầu lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời vua Hùng trị vì đất nước trong 2621 năm (Từ năm Nhâm Tuất 2879 đến năm 258 TCN). Bà Âu Cơ cùng các con đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Trên con đường dài muôn dặm đó, một ngày kia Người đến trang Hiền Lương, quận Hạ Hoa, trấn Sơn Tây.Thấy phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, có núi cao đồng rộng, sông dài, có hồ nước trong xanh bát ngát, cỏ cây hoa lá tốt tươi, cá chim muông thú dồi dào. Người cho khai hoang lập ấp, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Giếng Loan, giếng Phượng, gò Thị, gò Cây Dâu...là những cái tên từ thủa xa xưa đến nay vẫn còn đọng mãi trong ký ức người dân nơi đây. Khi trang ấp đã ổn định, người lại cùng các con lên đường đến các vùng đất mới. Đến khi giang sơn đã thu về một mối, bờ cõi biên cương được mở rộng, Người lại trở về với Hiền Lương, nơi người đã chọn để gắn bó cuộc đời của mình. Tương truyền ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, bà Âu Cơ cùng bầy tiên nữ bay về trời để lại dưới gốc đa một dải yếm lụa, ở đó nhân dân đã dựng lên một ngôi miếu thờ phụng, đời đời hương khói. Để tri ơn công đức Tổ Mẫu Âu Cơ và giáo dục truyền thống dân tộc, cách đây hơn 500 năm, thế kỷ thứ XV thời hậu Lê, vua Lê Thánh Tông đã phong thần và cho xây dựng Đền Mẫu Âu Cơ tại xã Hiền Lương - huyện Hạ Hoà; Đền Mẫu Âu Cơ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1991. Ngày lễ chính của Đền Âu Cơ là ngày “Tiên giáng” mùng bảy tháng giêng, ngoài ra trong năm còn có các ngày lễ khác là ngày 10 và ngày 11 tháng 2, ngày 12 tháng 3, ngày 13 tháng 8... Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Hạ Hòa - Tỉnh Phú Thọ

Phú Thọ 3045 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu căn cứ cách mạng Tu Lý, Hiền Lương

Nơi đây trong thời kỳ tiền khởi nghĩa tháng 8/1945, cùng với xã Hiền Lương đã hình thành khu căn cứ cách mạng Tu Lý, Hiền Lương, 1 trong 4 khu căn cứ cách mạng của tỉnh nằm trong hệ thống chiến khu Hòa, Ninh, Thanh (Chiến khu Quang Trung). Tại khu căn cứ này đã tổ chức lớp huấn luyện quân sự đầu tiên của tỉnh. Từ đây, phong trào cách mạng lan rộng ra các vùng xung quanh. Ngược dòng lịch sử, tháng 2/1945, Trung ương Đảng quyết định thành lập chiến khu Hòa - Ninh -Thanh. Theo Chỉ thị của Trung ương Đảng, việc thành lập các khu căn cứ gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa và đón giải phóng quân Nam tiến qua Hòa Bình bằng con đường từ Phú Thọ vào khu vực Tu Lý - Hiền Lương là một trong những cơ sở, điều kiện quan trọng hình thành và phát triển khu căn cứ cách mạng Hiền Lương - Tu Lý. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ ủy Bắc kỳ, Ban cán sự Đảng tỉnh đã quyết định thành lập khu căn cứ cách mạng Tu Lý - Hiền Lương. Ngày 10/2/1945 (ngày 28 Tết năm ất Dậu) được anh Đinh Công Hậu dẫn đường, đồng chí Vũ Thơ đã đến gặp anh Đinh Công Sắc ở xóm Tình Tràng - xã Tu Lý để bắt mối gây dựng cơ sở cách mạng. Từ đây, gia đình anh Đinh Công Sắc trở thành địa điểm liên lạc, hội họp, bàn kế hoạch xây dựng khu căn cứ Tu Lý - Hiền Lương và mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên cho lực lượng vũ trang tỉnh. Trên cơ sở phong trào phát triển tốt và có đủ điều kiện lập khu căn cứ, Ban cán sự Đảng tỉnh quyết định mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên tại nhà ông Xa Văn Bình, bưa Đồng Miếng, xóm Giằng Sèo với 20 đội viên tự vệ cứu quốc của thị xã Hòa Bình và huyện Mai Đà. Trong sự đùm bọc, che giấu của nhân dân Hiền Lương - Tu Lý, các học viên hoàn thành khóa học trở về nhanh chóng thành lập và phát triển các đội tự vệ cứu quốc, chuẩn bị khởi nghĩa cướp chính quyền. Lớp học quân sự thắng lợi đã đưa thanh thế của Việt Minh lên cao, lan truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp. Các hào lý khuất phục, nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng. Lực lượng cách mạng tại khu căn cứ ngày một lớn mạnh góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 tại tỉnh lỵ, châu lỵ chợ Bờ, Suối Rút, phố Vãng (Hòa Bình) và Mộc Châu (Sơn La). Năm 1946, lực lượng khu căn cứ cách mạng Tu Lý - Hiền Lương đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng cách mạng khác của tỉnh tiêu diệt gọn Đảng Đại Việt Duy Dân đến chiếm Mường Diềm làm đại bản doanh và âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng ở Hòa Bình. Để ghi dấu những chứng tích lịch sử, tại xóm Mạ - xã Tu Lý và xóm Rồng - xã Hiền Lương đã xây dựng Nhà bia lưu niệm khu di tích lịch sử cách mạng Tu Lý - Hiền Lương. Đây là những công trình có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, là nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho lớp lớp thế hệ vùng Tu Lý - Hiền Lương tiếp bước cha anh trong công cuộc bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng, đổi mới quê hương. Khu di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử

Phú Thọ 3195 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Khả Do

Đình Khả Do nằm trên địa bàn phường Viêm Nam Viêm, thành phố Phúc Yên, được xây dựng thời Hậu Lê (Lê Cảnh Hưng - 1741) thờ Tam Giang Đại Vương - Danh tướng giúp Triệu Việt Vương đánh tan giặc nhà Lương; Minh Phi Hoàng Hậu - Thánh Mẫu sinh ra Đức Tam Giang; Tá Phụ Nương Tử - Em gái Đức Tam Giang đã có công trong việc phụ trách quân lương. Tương truyền, Đức Thánh Tam Giang được Triệu Việt Vương phong làm Thượng Tướng quân để chống giặc Lương (thế kỷ thứ VI). Ngài đã cùng 3 em trai của mình dùng chiến thuật đánh du kích để đánh tan quân xâm lược nhà Lương do Trần Bá Tiên cầm đầu. Triệu Việt Vương lên ngôi được một thời gian, do không nghe lời can gián của Ngài lên đã bị mất ngôi vương bởi Lý Phật Tử. Lý Phật Tử cử người đi triệu anh em Ngài về làm quan nhưng Ngài không nhận mà rằng: “Tôi trung không thờ hai chúa” rồi cùng toàn bộ gia quyến tuẫn tiết trên sông Như Nguyệt. Ghi nhớ công lao cũng như tấm gương trung nghĩa của Ngài, dọc theo 3 dòng sông Thiên Đức, Nhật Đức, Nguyệt Đức có 298 thôn, xã thờ phụng và tôn Ngài là thành hoàng làng. Đình làng Khả Do là một công trình kiến trúc cổ, đồ sộ được xây dựng theo kiểu kiến trúc thời Hậu Lê. Đình được tập trung chạm trổ ở gian giữa, khu vực có hậu cung, nơi thánh ngự, nơi tập trung quân quyền và thần quyền và chủ yếu là hình rồng và các con vật vũ trụ, cùng với trần đình và các di vật thờ, các đồ trần thiết khiến đình Khả do hết sức nghiêm trang, biểu hiện uy quyền của văn hóa triều đình, đã tập trung và phát huy hết sức mạnh của nó. Với nghệ thuật tài tình, lối bố cục chặt chẽ, các con vật vũ trụ như long, ly, quy, phượng nói lên ước vọng của cuộc sống con người ở đây từ hơn 200 năm về trước. Đây là thành công nổi bật của nghệ thuật chạm khắc trần gỗ ở đình Khả do của nhân dân ta thời Lê Trung Hưng. Hiện nay, Đình Khả do còn khá nhiều di vật thờ có giá trị quý về mỹ thuật cổ dân gian, được bài trí tập trung ở gian giữa của đình và trên hậu cung, từ dưới lên và theo chất liệu. Đồ gỗ có: kiệu bát cống, án gian thờ, ngai thờ, ngựa thờ, mâm bồng…Đồ giấy có: Ngọc phả, sắc phong…Đồ sứ có: bát hương, lục bình, nậm rượu. Đồ đồng có hạc, cây nến, đài. Đồ vải có quạt ống vả, tàn, quần áo,… Ngày nay, đình Khả Do có những ngày lễ tiết chính trong năm như: Mùng 1 và ngày rằm hàng tháng; mười lăm tháng Giêng và mùng 2 tháng 8 là tiệc chính; mùng 2 tháng 5 và 15 tháng 10 là tiệc phụ; ngày mùng 10 tháng 4 là ngày giỗ thành hoàng làng. Đình làng Khả Do có một tục lệ rất đặc sắc đó là: Tục lệ “Mua Quan viên”, ngày nay gọi là “Mua Tư văn” của trai đinh trong làng. Thời phong kiến, cách mua là phải có xôi gà, trầu cau, thẻ hương chờ dịp lễ tiết đặt vào mâm đem lên đình lễ thành hoàng và trình làng mua quan viên. Ngày nay là nải chuối, trầu cau, thẻ hương để mua tư văn. Trai đinh trong làng ai cũng muốn được mua bởi họ thấy tự hào là mình đã có chỗ ngồi ở đình làng nên phải sống có đạo lý- nền nếp gia phong kẻo dân làng cười chê là kẻ tầm thường. Hiện nay, sổ theo dõi Tư văn vẫn kế tiếp sổ Quan viên ngày xưa rất chặt chẽ, công tâm. Người nào mua trước sẽ được xếp ngồi trước theo thứ tự (gọi là Bàn), không kể tuổi tác và chức sắc. Hai bàn đầu tiên gọi là bàn Nhất ngồi ở gian giữa đình, mỗi bàn ngồi 3 người. Hai bàn tiếp theo gọi là bàn Nhì cũng ngồi tiếp theo bàn Nhất ở gian giữa đình, mỗi bàn ngồi 4 người. Sau bàn Nhất, bàn Nhì mới đến bàn của chức sắc làng, xã cũng mỗi bàn 4 người ngồi ở gian giữa đình. Tiếp theo đến các bàn của Quan viên (Tư văn) đều ngồi 4 người ở hai bên tả hữu trong đình. Các bàn đều được trải chiếu và sắp cỗ ăn như nhau theo sự hướng dẫn của ban tổ chức. Quan viên (Tư văn) chỉ được chuyển đổi chỗ ngồi, bàn ngồi về phía trên, bàn trên khi người ngồi trước đã chết hoặc vắng mặt. Cứ như thế mà luân chuyển chỗ ngồi không được ưu tiên, bất kể người đó là ai. Chính nhờ nền nếp nghiêm ngặt, công bằng nên không xảy ra chuyện mất đoàn kết, tranh chỗ ngồi của nhau. Đây là một tục lệ đẹp của địa phương vẫn lưu giữ được cho đến ngày nay. Nguồn: Cổng Thông Tin - Giao Tiếp Điện Tử Thành Phố Phúc Yên

Phú Thọ 2779 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Căn Cứ Tiên Động Đền Ngô Quang Bích

Khu Di tích lịch sử Quốc gia căn cứ Tiên Động nằm trên địa bàn xã Tiên Lương huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Tiên Động xưa kia (khi Tướng quân Ngô Quang Bích chọn làm căn cứ kháng chiến) là một cánh đồng chiêm trũng sình lầy, được bao quanh bởi địa hình đồi núi hiểm trở. Từ căn cứ Tiên Động khi tiến có thể dùng thuyền theo ngòi Giành ra sông Hồng để sang Thanh Ba, xuôi về huyện lỵ Cẩm Khê, hay ngược lên Hạ Hòa. Khi thoái có thể vào Yên Lập, đi Nghĩa Lộ lên vùng Tây Bắc. Danh nhân- Tướng quân Ngô Quang Bích sinh ngày 7/5/1832 tại làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Theo chính sử, ông vốn họ Ngô, dòng dõi vua Ngô Quyền, nhưng do ông nội ông đổi sang họ ngoại là họ Nguyễn nên sử sách cũng gọi ông là Nguyễn Quang Bích. Năm 1858, ông thi đỗ tú tài; năm 1861, thi đỗ cử nhân, được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm quan nhưng ông dâng sớ xin tạm không nhậm chức để tiếp tục học thêm, đồng thời mở trường dạy học. Đến năm 1869, thời Tự Đức, ông thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên (tức Hoàng giáp). Sau đó, lần lượt được bổ nhiệm giữ các chức vụ Tri phủ Lâm Thao (Phú Thọ ngày nay); Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa ngày nay); Án sát tỉnh Sơn Tây; Tế tửu Quốc tử giám (Huế); Án sát tỉnh Bình Định; Chánh sứ sơn phòng kiêm Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa (bao gồm tỉnh Phú Thọ ngày nay). Khi Thực dân pháp đem quân đánh lên Hưng Hóa, cụ Ngô Quang Bích với tư cách “Chánh sứ sơn phòng kiêm Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa” đã lãnh đạo quân dân đánh Pháp, giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Tuy nhiên, với sức mạnh vượt trội của quân đội Pháp, ngày 12/4/1884, thành Hưng Hóa thất thủ. Ngô Quang Bích rút quân về Tiên Động xã Tiên Lương huyện Cẩm Khê lập căn cứ, dựng cờ khởi nghĩa, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi kháng Pháp. Cờ của nghĩa quân thêu 4 chữ "Bình Tây Báo Quốc" và lời tuyên thệ "Việt quốc thiên thu nguyên bất dịch, Lạc Hồng tiên chủng phục hoàn tô" khẳng định chủ quyền dân tộc. Vua Hàm Nghi ban chiếu phong ông làm Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần Trung hầu, lãnh nhiệm vụ tổ chức kháng chiến ở Bắc Kỳ (văn từ Tham tán, võ từ Đề Đốc được quyền liệu nghi lục dụng). Kể từ đó, với uy tín của mình, Tướng quân Ngô Quang Bích vừa trực tiếp chỉ huy cuộc khởi nghĩa Tiên Động, vừa tìm cách liên hệ để phối hợp với các thủ lĩnh kháng chiến khác như Phan Đình Phùng ở Thanh-Nghệ; Đèo Văn Trì, Nông Văn Quang, Cầm Văn Hoan, Cầm Văn Thanh là các sĩ phu, tù trưởng các dân tộc Kinh, Thái, Mường, Mông trong vùng tham gia chiến đấu hoặc ủng hộ kháng chiến. Trong khi cuộc kháng chiến đang có phần thuận lợi thì ngày 5 tháng 1 năm 1891, Tướng quân Ngô Quang Bích đột ngột chuyển bệnh nặng rồi mất, hưởng thọ 58 tuổi. Thi hài của ông được quân sĩ an táng tại núi Tôn Sơn huyện Yên Lập. Không chỉ là một chí sỹ yêu nước, thủ lĩnh kháng chiến mà Ngô Quang Bích còn là nhà thơ, nhà văn hóa. Ông để lại cho hậu thế tác phẩm “Ngư phong thi tập” (Tập thơ Ngư Phong), gồm 112 bài thơ bằng chữ Hán, phần lớn sáng tác trong những năm ông lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp tại Tiên Động. Ngoài ra, ông còn có các bài văn, câu đối viếng các đồng đội hy sinh. Đặc biệt là "Thư trả lời quân Pháp" với lời lẽ khẳng khái, ý chí quyết hi sinh vì độc lập dân tộc. (Khi Pháp đưa thư dụ ông đầu hàng, hứa sẽ cấp chức tước, bổng lộc cao, ông đã đanh thép trả lời rằng: "Ta mà thắng, mà sống thì là nghĩa sĩ triều đình. Chẳng may mà thua, mà chết thì cũng làm quỷ thiêng giết giặc. Ta thà chịu tội với nhất thời, quyết không mắc tội với vạn thế!") Năm 1884, sau khi thành Hưng Hóa thất thủ, rút quân về đóng ở Tiên Động, Tướng quân Ngô Quang Bích đã xây dựng nơi đây thành một hệ thống đồn lũy liên hoàn, đảm bảo cho sự phòng thủ và tấn công hợp lý, trở thành căn của địa vững chắc của cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Trung du, miền núi Bắc Bộ. Đại bản doanh của căn cứ đóng trên một gò cao mà nay nhân dân gọi là gò Quan Đại. Đây là quả đồi cao khoảng 150m so với mặt bằng khu vực, giáp với núi Lưỡi Hái, đỉnh đồi khá bằng phẳng và lồi mặt gương lên làm 3 mỏm. Mỏm giữa là đồi Tướng Quân, nơi đóng đại bản doanh của nghĩa quân (và cũng là nơi mà ngày nay xây dựng đền thờ Ngô Quang Bích). Bên phải là mỏm Hồ Gia, án ngữ con đường xuyên qua núi Lưỡi Hái thông sang Yên Lập (về sau ông đã cho rút quân vào Yên Lập bằng con đường này). Bên trái là gò Cổng Đồn (đây là đồn vệ binh bảo vệ đại bản doanh). Mỗi mỏm đồi gò cách nhau khoảng 300m, gần chân đồi hiện nay còn những vết tích của giếng nước và nơi buộc ngựa của nghĩa quân xưa kia. Trong khu căn cứ Tiên Động còn lưu giữ các địa danh nổi tiếng như: đồi Tướng Quân, đồi Cột Cờ, gò Mai, gò Đồn, gò Múc, đồi Cỏ Rác… là những địa điểm gắn liền với tên tuổi Danh nhân- Tướng quân Ngô Quang Bích với các nghĩa sĩ Cần Vương và phong trào khởi nghĩa chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Ngày 12/2/1999, căn cứ Tiên Động đã được Bộ Văn hoá- Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Trong đền có tượng thờ Tướng quân Ngô Quang Bích, các văn bia ghi lại ý chí và lòng quả cảm của ông cùng các nghĩa sĩ Cần Vương. Trên tấm bia trên đường dẫn lên đền thờ có khắc ghi những dòng thơ của quan Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết ca ngợi ý chí, tấm lòng yêu nước của Tướng quân: Các hiện vật được trưng bày trong nhà trưng bày gồm: 1 bộ ấm chén, 1 phạng sứ đựng cơm màu da lươn, 1 khẩu súng Hỏa Mai và một số đạn và vỏ đạn của nghĩa quân. Về bộ ấm chén và chiếc phạng sứ đựng cơm, đây là những đồ dùng phục vụ Tướng quân Ngô Quang Bích trong sinh hoạt hàng ngày, được tìm thấy năm 1979 bởi gia đình bà Tuân Huệ ở Tiên Động khi đào đất trong vườn nhà (khi tìm được hiện vật, qua thông tin từ gia đình, các nhà nghiên cứu đã xác nhận, xưa kia ông nội của bà là lính cận vệ của cụ Ngô Quang Bích, vẫn dùng Phạng này để ủ cơm cho cụ). Tiên Động là căn cứ kháng chiến của cả vùng trung du, miền núi phía bắc, được lãnh đạo, điều hành trực tiếp bởi Hiệp thống Bắc kỳ quân vụ đại thần Ngô Quang Bích nên cũng là nơi tụ hội của nhiều văn thân, chí sỹ yêu nước nổi tiếng trong cả nước như Tống Duy Tân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy, Nguyễn Cao... về đây để bàn việc phục quốc. Vì vậy, đây là di tích lịch sử ghi dấu ấn, sử liệu của cả một thời kháng Pháp oanh liệt của phong trào Cần Vương. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Cẩm Khê

Phú Thọ 2882 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu căn cứ cách mạng Cao Phong - Thạch Yên

Khu căn cứ cách mạng Cao phong - Thạch Yên thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình. Vì các hoạt động của khu căn cứ diễn ra trên địa bàn hai xã Cao Phong - Thạch yên (cũ) nên khu căn cứ có tên gọi là Cao phong - Thạch Yên (nay di tích thuộc địa bàn xã Yên Lập - Yên Thượng - Huyện Cao Phong). Được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1996. Từ giữa năm 1944 trở đi, sau khi có Chỉ thị của Trung ương Đảng về gây dựng cơ sở chiến tranh du kích ở tỉnh Hoà Bình, đặc biệt là sau khi có Chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng (tháng 1 năm 1945) về việc xây dựng chiến khu Hoà - Ninh - Thanh nhằm chủ động tốt địa bàn cho Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến qua; đồng thời chuẩn bị về mặt quân sự cho công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, phong trào cách mạng ở tỉnh Hoà Bình đã phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Việc xây dựng cơ sở Việt Minh càng tiến triển với tốc độ nhanh, cho đến cuối năm 1944, đầu năm 1945, ngoài thị xã Hoà Bình, cơ sở Việt minh còn lan ra các xã xung quanh như Quỳnh Lâm và bắt đầu lan tới vùng Cao Phong. Khu căn cứ Cao Phong - Thạch Yên nằm trên vùng rừng núi hiểm trở, tuy địa bàn phân bố hoạt động của khu căn cứ diễn ra rất rộng gồm các địa điểm lịch sử như: 1. Đồi Chùa Khánh ở xóm Khánh xã Yên Thượng. Đây là nơi tập luyện của đơn vị vũ trang - đội ngũ cán bộ đầu tiên của khu căn cứ. Sau khi huấn luyện xong ở đây, đơn vị đã toả đi các xóm để xây dựng các đội tự vệ. Các đồng chí trong đơn vị này trở thành những tiểu đội trưởng của các đội tự vệ của các xóm. 2. Gia đình ông Bùi Văn Y xóm Đai, xã Yên Thượng. Là cơ sở tin cậy của đồng chí Vũ Thơ, Trương Đình Dần…đi lại, nghỉ ngơi trong suốt thời gian tham gia hoạt động. Gia đình ông đã đóng góp rất nhiều lương thực, tiền của ủng hộ cho cách mạng. 3. Gia đình ông Bùi Văn Hoảnh ở xóm Trang, xã Tân Phong. Là cơ sở tin cậy để các đồng chí Vũ Thơ, Trương Đình Dần…đi, về, ăn, nghỉ, trong suốt thời gian hoạt động tại khu căn cứ Cao Phong - Thạch Yên. 4. Chùa xóm Trang, xã Tân Phong. Đây là địa điểm Ban cán sự Đảng tỉnh Hoà Bình đã họp vào tháng 4/1945. Trong cuộc họp này, Ban cán sự đã quyết định thành lập các khu căn cứ. Sau ngày kháng chiến chống Pháp thành công, do nhiều nguyên nhân nên ngôi chùa đã bị hư hỏng mất. 5. Gia đình ông Phó Viễn (tức Đặng Chí Viễn). Là người có công trong việc giúp đỡ đồng chí Vũ Thơ đến giác ngộ các lang của vùng Cao Phong - Thạch Yên. Trong suốt thời gian hoạt động tại khu căn cứ, gia đình ông đã trở thành một địa điểm tin cậy của các đồng chí tham gia hoạt động tại khu căn cứ cách mạng Cao Phong - Thạch Yên. Gia đình ông Phó Viễn còn là địa điểm Ban cán sự Đảng tỉnh triệu tập Hội nghị đại biểu mặt trận Việt Minh toàn tỉnh họp tháng 7 năm 1945 thực hiện Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh về gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hoà Bình. Chiến khu Cao Phong - Thạch Yên là một trong những điểm xây dựng cơ sở cách mạng của Ban cán sự Đảng tỉnh Hoà Bình. Khu căn cứ Cao Phong - Thạch Yên thực sự là khu căn cứ vững chắc của cách mạng tỉnh Hoà Bình và hệ thống chiến khu Hoà - Ninh - Thanh, góp một phần không nhỏ vào thắng lợi chung của phong trào cách mạng tỉnh Hoà Bình. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hoà Bình

Phú Thọ 4025 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Địa điểm Đại hội trù bị Đại hội II Đảng nhân dân cách mạng Lào

Di tích Địa điểm Đại hội trù bị Đại hội 2 Đảng nhân dân cách mạng Lào là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia, di tích nằm ở phường Dân Chủ Thành Phố Hòa Bình. Đây là di tích có ý nghĩa đặc biệt thể hiện tình hữu nghị 2 nước Việt Nam - Lào. Việt Nam và Lào là 2 nước láng giềng gần gũi, có mối quan hệ truyền thống, gắn bó từ lâu đời. Mối quan hệ đó đã được dày công vun đắp, tôi luyện trong thực tế, hun đúc bằng công sức và xương máu của biết bao anh hùng liệt sĩ, bằng sự hy sinh phấn đấu của nhiều thế hệ người dân Việt Nam và người dân nước bạn Lào. Quan hệ giữa hai nước đã trở thành tài sản vô giá của 2 dân tộc. Trong những năm tháng đấu tranh chống kẻ thù chung để giành độc lập tự do, 2 dân tộc đã chia ngọt sẻ bùi, hy sinh xương máu và dựa vào nhau để tồn tại và phát triển. Sự gắn bó đó đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt vô cùng quý giá được xây đắp trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, tự chủ của nhau. Mối quan hệ tốt đẹp giữa 2 dân tộc Việt Nam - Lào được minh chứng rõ ràng nhất qua lịch sử đấu tranh giành độc lập của 2 dân tộc. Một trong vô vàn những minh chứng đó chính là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giúp đỡ Đảng nhân dân Lào tổ chức thành công Đại hội trù bị đại hội 2 đảng nhân dân Lào và tổ chức thành công các lớp bồi dưỡng chính trị cho các đồng chí đảng viên Lào tại Hòa Bình. Trong quá trình thành lập Đảng nhân dân cách mạng Lào và trong thời kỳ kháng chiến, nhiều địa điểm minh chứng cho mối quan hệ truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt đã được hiện diện ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam. Việc tỉnh Hoà Bình là nơi đã diễn ra Đại hội trù bị Đại hội 2 Đảng nhân dân Lào và là nơi các khoá học bồi dưỡng về công tác Đảng, công tác chính trị của Cách mạng Lào trong thời gian từ đầu năm 1971 đến đầu năm 1972, một lần nữa chứng minh và khẳng định sự đóng góp to lớn của Hòa Bình và nhân dân các dân tộc Hòa Bình vào mối quan hệ truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hoà Bình với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào nói riêng, minh chứng cho tình gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt - Lào trường tồn mãi mãi. Ngày nay, dự án khôi phục, tôn tạo di tích lịch sử cách mạng, Địa điểm huấn luyện chính trị và Đại hội trù bị Đại hội lần thứ 2 Đảng nhân dân Lào, nay là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được triển khai thực hiện trở thành điểm đến quen thuộc đối với các đoàn du khách của nước bạn Lào khi đến làm việc, học tập, thăm quan du lịch tại Việt Nam. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử

Phú Thọ 3446 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Chiến khu Cách mạng Mường Khói

Chiến khu Mường Khói là di tích lịch sử cách mạng, khu căn cứ địa cách mạng thời kỳ tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945, thuộc hệ thống chiến khu (Hoà - Ninh - Thanh) do xứ uỷ Bắc kỳ trực tiếp xây dựng và chỉ đạo hoạt động, tại đây xứ uỷ Bắc Kỳ đã mở lớp huấn luyện quân sự tập trung (Trường Sơn du kích kháng Nhật học hiệu). Cách trung tâm thành phố Hoà Bình khoảng 70km, cách thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn theo đường 12 khoảng 15km. Được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1993. Mường Khói bao gồm vùng đất của 3 xã Hoài Ân, Hiếu Nghĩa và Tân Mỹ (nay là xã Ân Nghĩa, xã Yên Nghiệp và xã Tân Mỹ), nằm ở phía Đông Nam huyện Lạc Sơn, địa hình rừng núi hiểm trở, Mường Khói có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có đường 12A chạy qua nối liền với tỉnh Ninh Bình, tỉnh Thanh Hoá, nối liền với đường số 6 cửa ngõ của khu vực Tây Bắc. Khu vực hoạt động của chiến khu Mường Khói kéo dài từ đường 12A vào chân dẫy núi Trường Sơn nối liền với các chiến khu Quỳnh Lưu (Ninh Bình), Ngọc Trạo (Thanh Hoá) và từ Mường Khói toả lên thị trấn Vụ Bản, Mường Vang (vùng Cộng Hoà - Lạc Sơn). Các địa điểm di tích chủ yếu của khu căn cứ cách mạng Mường Khói: Khu vực ba cây đa cổ thụ: Là địa điểm liên lạc đón tiếp cán bộ của ban cán sự Đảng tỉnh Hoà Bình về hoạt động cách mạng. Ngày 20/8/1945 các lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng Mường Khói đã tập trung tại đây để đứng lên giành chính quyền ở châu Lạc Sơn. Đây là nơi lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng của phong trào cách mạng ở châu Lạc Sơn tung bay trên ngọn cây đa cổ thụ. Khu vực nhà ông Quách Hy: Ông Quách Hy và con trai là Quách Dưỡng là những hội viên cứu quốc đầu tiên của Mường Khói. Nhà ông Quách Hy là nơi đón tiếp cán bộ, là địa điểm liên lạc của ban cán sự đảng tỉnh Hoà Bình và cán bộ xứ uỷ Bắc kỳ về hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở chiến khu Mường Khói. Khu vực gia đình nhà ông Bùi Văn Khuýnh: Trước đây nhà ông cư trú tại xóm Lọt, là địa điểm tổ chức lớp học quân sự cách mạng tập trung của xứ uỷ Bắc kỳ (Trường sơn du kích kháng Nhật học hiệu). Tại chiến khu Mường Khói trung đội tự vệ cứu quốc, lực lượng vũ trang đầu tiên của phong trào cách mạng Lạc Sơn được thành lập tại đây (tháng 3/1945). Tháng 7/1945 xứ uỷ Bắc Kỳ mở lớp huấn luyện quân sự tập trung (Trường Sơn du kích kháng Nhật học hiệu) để đào tạo các cán bộ quân sự lãnh đạo khởi nghĩa ở các địa phương thuộc Bắc Kỳ. Chiến khu Mường Khói còn là địa bàn hoạt động cách mạng của các đồng chí Bạch Thành Phong (uỷ viên thường vụ xứ uỷ Bắc Kỳ), Vương Thừa Vũ (cán bộ xứ uỷ Bắc Kỳ), Lê Quang Hoà (Bí thư ban cán sự Đảng tỉnh Sơn Tây) và nhiều đồng chí cán bộ nòng cốt của phong trào cách mạng ở tỉnh Hoà Bình và các tỉnh khác ở Bắc Kỳ. Chiến khu Mường Khói là một trong những cái nôi của phong trào cách mạng tỉnh Hoà Bình. Trong phong trào khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, Mường Khói là nơi các lực lượng cách mạng và quần chúng nhân dân huyện Lạc Sơn, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thành công đầu tiên ở tỉnh Hoà Bình. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hoà Bình

Phú Thọ 4270 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê

Nhà máy in tiền đầu tiên của chính quyền cách mạng Việt Nam nằm ở đồn điền Chi Nê (giai đoạn 1946 - 1947) nay là xã Cố Nghĩa, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Tại đây, những tờ “Giấy bạc Tài chính - Giấy bạc cụ Hồ” đầu tiên mang sứ mệnh lịch sử lớn lao trong những ngày đầu độc lập của chính quyền cách mạng đã ra đời. Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng cấp Quốc gia năm 2007. Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước ta đứng trước những thử thách vô cùng khắc nghiệt. Một trong những vấn đề nổi lên là tài chính, mà quan trọng là việc phát hành đồng tiền của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong khi Chính phủ lâm thời đang gặp khó khăn, lúng túng với cơ sở in và phát hành giấy bạc Việt Nam để có thể chủ động về mặt tài chính và đấu tranh kinh tế với địch, ông Đỗ Đình Thiện, một nhà tư sản yêu nước đã tự nguyện bỏ tiền ra mua lại toàn bộ nhà in Tô-panh (Taupin) của Pháp tại Hà Nội và hiến tặng cho Chính phủ để lập nhà máy in tiền. Nhờ đó chính quyền cách mạng mới có được nhà in tiền riêng, đáp ứng một phần nhu cầu chi tiêu trong hoàn cảnh ngân khố hầu như trống rỗng. Đến tháng 3/1946, trước nguy cơ bị lộ việc in tiền tại Nhà in Tô-panh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ và Bộ Tài chính quyết định tìm địa điểm mới để di chuyển toàn bộ nhà in ra khỏi Hà Nội. Một lần nữa, chính ông Đỗ Đình Thiện đã chủ động đề xuất Bộ Tài chính chuyển nhà máy in lên đồn điền của gia đình ông ở Chi Nê (Hoà Bình). Chính tại nơi đây, tờ bạc 100 đồng Việt Nam, còn được gọi là tờ bạc “con trâu xanh” ra đời. Tờ bạc Tài chính cụ Hồ ra đời mang theo sứ mệnh lịch sử vô cùng quan trọng: góp phần đấu tranh tiền tệ với địch để bảo vệ nền độc lập dân tộc và trở thành vũ khí đấu tranh trên mặt trận kinh tế - tài chính - tiền tệ, loại bỏ đồng tiền Đông Dương của thực dân Pháp ra khỏi nước ta, góp phần quyết định vào việc cung cấp nhu cầu vật chất, lưu thông hàng hoá trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của nhân dân ta. Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê đã hai lần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm. Đây là nơi lưu giữ những dấu ấn lịch sử đầu tiên của Bộ Tài chính nói riêng, nền Tài chính quốc gia nói chung và một thời kỳ cách mạng vẻ vang. Năm 2007, khu di tích lịch sử Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê (1946-1947) được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê có tổng diện tích là 15,64 ha, bao gồm các hạng mục như: Xưởng in tiền; Nhà Bác Hồ về thăm và làm việc; Kho chứa bạc; Nhà hội trường; Nhà đón tiếp; phù điêu tại khu xưởng in; sân vườn trồng cây; hệ thống giao thông toàn khu vực; khu công viên vườn hoa; khu đón tiếp và các công trình văn hoá, vui chơi giải trí; khu nghỉ dưỡng, khách sạn, nhà hàng... Khu di tích thực sự là công trình có ý nghĩa, nơi lưu giữ những dấu ấn lịch sử của Bộ Tài chính nói riêng, của nền tài chính quốc gia nói chung và một thời kỳ lịch sử cách mạng vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Cổng thông tin điện tử bộ tài chính

Phú Thọ 3707 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền và miếu Trung Báo

Đền và Miếu Trung Báo, trước đây có tên nôm là đền Beo (gọi theo tên làng vì phía sau làng có dãy núi gọi là núi hổ phục). Di tích nằm tại Thôn Trung Báo, xã Thanh Cao, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Đền gồm hai hạng mục kiến trúc: Đền Trung Báo và Miếu Trung Báo. Đền và miếu Trung Báo được công nhận Di Tích Lịch Sử-Văn Hoá cấp quốc gia năm 1997. - Đền Trung Báo: Thờ ba vị thần là Tam Vị Đại Vương Tản Viên Sơn Thánh; Quốc Mẫu Hoàng Bà và Thành hoàng làng Trung Báo. Được toạ lạc trên một khu đất thoáng rộng cạnh bìa làng, là một ngôi đền bề thế khang trang. Hai bên đền là luỹ tre làng toả bóng mát, trước đền là cánh đồng lúa, phía sau có dòng suối Rồng chảy qua. Đền có kết cấu hình chữ nhất, mặt đền quay theo hướng Đông bắc, gồm ba gian, mái đền lợp ngói Hương Canh, hai đầu hồi xây bít đốc. Phía trước đền có bức đại tự đắp nổi ba chữ Hán: Thượng đẳng thần (thần tối cao). - Miếu Trung Báo: Thờ Tam vị Đại Vương Tản Viên Sơn Thánh; Quốc Mẫu Hoàng Bà và Thành hoàng làng. Miếu được xây dựng trên một thế đất cao phía Tây Bắc của làng cách đền chừng 300m, cảnh quan nơi đây khá đẹp. Dưới con mắt của nhà phong thuỷ thì thế Miếu nằm trên thế đất mai Rùa (Thần Kim Quy ứng hiện). Mặt sau ngôi miếu là dãy núi Hổ phục và Long Lĩnh. Ba mặt còn lại có dòng suối uốn quanh với cây cổ thụ vươn cao toả bóng mát. Miếu xưa làm bằng gỗ lợp tranh, gồm ba gian, mái vòm cung (hình mai rùa). Trải qua thời gian, khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa mưa nắng nhiều, cộng với những biến thiên của lịch sử, miếu với kiến trúc làm bằng gỗ, mái lợp tranh nên không tồn tại được lâu. Đến đời vua Khải Định thứ 2 (1917) được nhân dân ba giáp của xã đóng góp công sức và kinh phí xây dựng lại ngôi miếu, với kết kiến trúc hình chữ nhất, phía trước có bức đại tự với 4 chữ Hán đắp nổi: Bảo sơn dục tú (Núi Báu hun đúc sự tốt đẹp). Hiện nay đền Trung Báo còn lưu giữ được 3 sắc phong gốc của các triều đại Nhà nước Phong kiến Việt Nam phong tặng cho các vị thần được thờ ở đền. - Lễ hội đền và miếu Trung Báo được tổ chức thường niên mỗi năm một lần vào ngày 11 và 12 tháng 11 âm lịch hàng năm. Trong quá trình tổ chức lễ hội diễn ra các trò chơi dân gian như: chọi gà, ném còn, đánh đu… Lễ hội đền và miếu Trung Báo gắn liền với bản sắc văn hoá, thể hiện cảnh vui chơi, ăn mừng của dân làng sau một vụ mùa bội thu. Qua lễ hội chúng ta sẽ hiểu được những nghi thức truyền thống của người dân nơi tiếp giáp vùng văn hoá "Việt - Mường" ở Hoà Bình. Đồng thời chúng ta còn hiểu được mong muốn khát vọng và bản sắc của người dân nơi đây thông qua các nghi trình, nghi thức của lễ hội. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hoà Bình

Phú Thọ 3839 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật