Di tích lịch sử

Lâm Đồng

Vườn Quốc gia Cát Tiên

Vườn Quốc gia Cát Tiên được thành lập dựa trên cơ sở sáp nhập Khu rừng cấm Nam Cát Tiên, Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Cát Tiên và Khu Bảo tồn tê giác Cát Lộc, nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Lâm Đồng. Diện tích khu vực trung tâm của vườn là 71.920 ha, trong đó, 39.627ha thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, 27.850ha thuộc địa phận tỉnh Lâm Đồng và 4.443ha thuộc địa phận tỉnh Bình Phước. Vườn Quốc gia Cát Tiên là khu vực hiện bảo tồn được nhiều loại động, thực vật quý hiếm; là vùng quan trọng để duy trì hệ sinh thái rừng thường xanh lá rộng - môi trường sống duy nhất (hiện còn) của loài tê giác một sừng ở Việt Nam, khu vực Đông Dương cũng như trên thế giới. Độ che phủ của rừng tự nhiên trong khu vực này lên tới 80%, với hệ sinh thái đa dạng: rừng thường xanh ẩm, đồng cỏ và ngập nước. Địa hình tự nhiên xen kẽ các bàu, đầm, suối, cộng với hơn 90km sông Đồng Nai đã tạo nên cảnh quan đặc trưng cho vườn Cát Tiên, với những ghềnh, thác, các khu đất ngập nước và bán ngập nước,... Những dấu tích về địa chất, địa mạo minh chứng cho quá trình biến đổi của thiên nhiên ở khu vực này hàng triệu năm trước. Hiện nay, Vườn Quốc gia Cát Tiên là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam, đã được UNESCO ghi danh. Theo số liệu thống kê, trong Vườn Quốc gia Cát tiên có 1.610 loài thực vật và 1.568 loài động vật. Trong đó, 31 loài thực vật và 84 loài động vật có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 50 loài chim được ưu tiên bảo vệ ở mức độ toàn cầu và được ghi vào Sách Đỏ IUCN, 2008). Đặc biệt, có 3 loài và phân loài thuộc đặc hữu của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong là chà vá chân đen, tê giác một sừng Việt Nam và hoẵng Nam Bộ. Vườn Quốc gia Cát Tiên đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1997. Trong khu vực Cát Tiên có nhiều địa điểm cảnh quan đẹp, như thác Trời, thác Bến Cự, thác Dựng, thác Mỏ vẹt, thác Nơkrót - Nơkrót... Một trong số những hệ sinh thái nổi bật ở đây là hệ thống sông và các bàu. Sông Đồng Nai, có diện tích lưu vực là 40.800 km2; đoạn chảy qua Vườn Quốc gia Cát Tiên dài khoảng 90km. Suối Đắc Lua dài khoảng 20 km, gom nước từ các bàu ra sông. Bàu Sấu là bàu lớn nhất, có diện tích mặt là 92,63 ha. Trong bàu có khoảng 100 cá thể cá Sấu Xiêm. Khu vực này cũng là nơi sinh sống của loài cá lăng nổi tiếng. Bàu Cá là hồ nước tự nhiên, có diện tích mặt nước 74,3 ha. Bàu Bèo có diện tích 23,92 ha. Xung quanh bàu được bao bọc bởi nhiều cây gỗ lớn... Trong khu vực Cát Tiên còn có diện tích đồng cỏ khá rộng, nơi bảo tồn các loài thú lớn quý hiếm (bò tót, hoẵng), được bảo vệ tốt, hầu như không có tác động của con người. Về hệ thực vật của khu vực Cát Tiên: Nổi bật là rừng thường xanh lá rộng, với diện tích 17.819 ha, nơi có các loài thực vật chủ yếu thuộc họ dầu, như dầu rái, dầu lông,... cẩm lai Bà Rịa, cẩm lai, gõ, giáng hương,... và các loài gỗ lớn...; rừng thường xanh nửa rụng lá có diện tích 5.097 ha, gồm những loài cây gỗ rụng lá vào mùa khô, như bằng lăng ổi, râm,…, các loài cây gỗ lớn rụng lá và hồi lại vào mùa mưa; rừng cây gỗ xen tre nứa có diện tích 14.361 ha...; rừng tre nứa thuần loại có diện tích 29.805 ha, được hình thành dưới tác động của con người, với các loài tre Lồ Ô, mum, tre gai (la ngà); thảm thực vật ngập nước và bán ngập nước có diện tích 3.516 ha, phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm khu vực Nam Cát Tiên. Các dấu tích khảo cổ học cho thấy, trong khu vực này đã từng tồn tại một nền văn hóa cổ. Trong lịch sử, khu vực Cát Tiên và vùng phụ cận là không gian cư trú của nhiều dân tộc thiểu số: Mạ, Chơro, S’Tiêng, Mnông, Tày, Nùng, H'mông, Dao, Hoa, Mường, Ê đê,… Các dân tộc này hiện còn bảo lưu nhiều sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội đặc sắc, như lễ hiến tế trâu của người S’Tiêng và Mạ, lễ hội Sayangva (Mừng lúa mới) của dân tộc Chơro, lễ mừng lúa mới của dân tộc S’Tiêng và Mnông... Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận Vườn Quốc gia Cát Tiên là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 27/9/2012). Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Lâm Đồng 1860 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Hồ Đạ Tẻh

Nằm cách trung tâm huyện 10 km, hồ Đạ Tẻh hiện ra trong màu xanh bao trùm của rừng nhiệt đới nguyên sinh và dãy núi Con Ó hùng vĩ trập trùng. Năm 1990, hồ Đạ Tẻh được khởi công xây dựng. Buôn Con Ó của người Mạ nằm trong lòng hồ được di dời đến mảnh đất cao hơn ngay bên cạnh hồ. Con đập lớn nối 2 sườn núi đã ngăn dòng để những con nước không còn chảy miệt mài vô nghĩa mà tụ lại hợp lưu dâng lên thành hồ. Vào thời điểm đó, hồ Đạ Tẻh là công trình thủy lợi “3 nhất” của tỉnh Lâm Đồng: vốn đầu tư lớn nhất, công trình thủy lợi hoàn chỉnh nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Năm 1997, hồ Đạ Tẻh hoàn thành trở thành công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Mặt hồ có diện tích rộng hơn 100 ha trải dài đến gần 10 km, nơi rộng nhất 400 m, chứa 24 triệu mét khối nước, được bao phủ bởi núi rừng nguyên sinh. Hồ đã mang nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho hơn 2.300 ha đất nông nghiệp làm nên những cánh đồng xanh tươi, trù phú ở các xã Mỹ Đức, Quốc Oai, Triệu Hải, Quảng Trị và thị trấn Đạ Tẻh, từng ngày làm cho vùng quê mới trở thành miền quê đáng sống, đưa huyện Đạ Tẻh trở thành huyện nông thôn mới năm 2020 là một trong 3 huyện đầu tiên của Lâm Đồng “về đích” nông thôn mới. Trong tiếng đồng bào Mạ (chủ nhân của vùng đất này), Đạ Tẻh có nghĩa là dòng nước nóng (Đạ: nước, Tẻh: nóng). Có lẽ, một vùng lòng chảo bị bao bọc, che chắn bởi núi đồi nên khí hậu ở đây nắng nóng, khô cháy, những dòng nước chảy qua đây cũng trở nên nóng hơn những nơi khác; vì thế mà cả vùng đất nắng bụi mưa bùn có tên là Đạ Tẻh. Không còn cái nóng khắc nghiệt nữa, dòng nước mát lành từ rừng nguyên sinh làm cho nước hồ ăm ắp quanh năm, vừa tưới tiêu cho mùa màng, vừa cung cấp nước sinh hoạt cho Nhân dân trong huyện, hồ Đạ Tẻh còn góp phần cải tạo, làm thay đổi hệ sinh thái và cảnh quan môi trường tự nhiên, điều hòa môi sinh, tỏa luồng hơi nước mát lành làm cho khí hậu dịu đi, giảm độ nóng cho cả một vùng lòng chảo. Năm 2004, hồ được công nhận là Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1676 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Voi (Thác Liêng Rơwoa)

Thác Liêng Rơwoa hay còn gọi là Thác Voi nằm ở thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, cách thành phố Đà Lạt 25km về hướng tây nam. Thác Voi là một trong những thác nước đẹp của Tây Nguyên hùng vĩ với chiều cao hơn 30m, rộng chừng 15m. Các già làng K'ho cư trú lâu đời ở miền đất này kể rằng: Ngày xưa, vị tù trưởng của vùng núi Jơi Biêng có cô con gái rất đẹp. Mỗi khi sơn nữ cất giọng hát thì lá rừng thôi xào xạc, đàn chim ngừng tiếng hót để lắng nghe. Người yêu của nàng là con trai của tù trưởng làng bên. Chàng được nhiều người yêu mến, quý trọng không chỉ bởi vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khôi ngô mà còn vì sự gan góc, dũng cảm ít ai sánh kịp. Họ đã trao lời hẹn ước nên duyên chồng vợ song chàng trai phải lên đường giết giặc và rồi nhiều mùa trăng trôi qua mà chẳng thấy quay về. Cô gái đau khổ tìm đến ngọn núi hoang vắng mà trước kia họ từng hò hẹn, cất tiếng hát tha thiết, sầu thảm với hy vọng người trong mộng tìm về chốn xưa. Tiếng hát khiến loài chim B'ling xúc động. Chúng rủ nhau bay đi thật xa để dò la tin tức rồi về báo cho nàng biết là chàng trai đã hy sinh ngoài chiến trường. Thế nhưng, sơn nữ vẫn không chịu chấp nhận sự thật phũ phàng đó. Nàng cứ hát, hát mãi cho đến khi kiệt sức, ngã quỵ và không bao giờ gượng dậy được nữa. Đàn voi phủ phục nghe nàng hát bấy lâu nay cũng hóa đá lặng câm. Bỗng có tiếng nổ lớn, trời đất rung chuyển khiến ngọn núi gãy ngang và một dòng thác đột ngột tuôn chảy, tung bọt trắng xóa. Tiếng thác nước rì rầm hòa cùng tiếng xào xạc của rừng cây, tiếng líu lo chim hót như tiếp nối lời ca, tiếng đàn của sơn nữ xinh đẹp, thủy chung. Người K'ho bèn đặt tên cho thác là Liêng Rơwoa Jơi Biêng - thác của những con voi phủ phục hóa đá trước tình yêu nồng nàn, son sắt. Sẽ thật đáng tiếc khi đến Đà Lạt - Lâm Đồng mà không tới Liêng Rơwoa (thác Voi) kỳ bí, thơ mộng. Thác nước gắn liền với sự tích về mối tình thủy chung, bi tráng này đã được công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Dòng nước trong veo tuôn chảy qua sườn núi đá hoa cương trông thật ngoạn mục, nhất là khi ánh nắng rực rỡ chiếu rọi xuống thác làm bừng lên cầu vồng bảy sắc. Muốn xuống chân thác, du khách phải "chinh phục" 145 bậc tam cấp vòng vèo: khi là những bậc đá thiên tạo "ăn" vào vách núi cheo leo, lúc là các tấm ván của chiếc cầu gỗ xinh xinh chênh vênh bên bờ vực thẳm. Ngút tầm mắt là rừng đại ngàn với những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, thân và cành chằng chịt dây leo. Giữa mênh mang, lớp lớp cây rừng mầu xanh ngắt hoặc điểm xuyết những chòm lá đỏ rực như lửa, những thảm hoa màu vàng tươi hoặc tím biếc đẹp đến lạ lùng. Dưới chân thác và trong cánh rừng già xuất hiện một số tảng đá lớn có hình thù hệt như những con voi. Thế nên, tiếng thác đổ ầm ào khiến người thưởng ngoạn tưởng như có một đàn voi chạy đua hoặc tung vòi phun nước đùa nghịch với nhau. Phía sau dòng thác trắng xóa đang tung bụi nước mù mịt là những hang động sâu hun hút đầy bí ẩn. Đó là hang Dơi ăn sâu xuống lòng đất đến 50m với những vách đá có các hình thù, mầu sắc rất lạ mắt. Rễ cây và dây leo đan xen chằng chịt, càng xuống sâu, hang càng tối nhờ nhờ và lạnh lẽo như động của phù thủy. Đó là hang Gió với lối vào rất hẹp nhưng bên trong khá rộng, vi vút tiếng sáo gió trời. Bên cạnh vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng, thác Voi từng là cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ. Mới được tôn tạo thành điểm tham quan du lịch trong những năm gần đây. Năm 2001 thác Voi đã được công nhận là di tích - thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1614 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu

Thung lũng Tình Yêu là một trong những thắng cảnh thơ mộng nhất tại Đà Lạt, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía bắc, thung lũng Tình Yêu có địa chỉ tại số 7 Mai Anh Đào, phường 8, thành phố Đà Lạt. Đó là nơi đập Đa Thiện quy tụ những dòng suối nhỏ chảy từ đồi núi cao, thành hồ Đa Thiện trong vắt uốn quanh thung lũng rợp bóng thông xanh. Vào những năm 1930, toàn quyền Đông Dương và các cặp tình nhân người Pháp thường chọn khung cảnh này cho những buổi hẹn hò, rồi đặt tên là Valleé d'Amour. Đến thời vua Bảo Đại, vùng này được gọi là Thung lũng Hòa Bình. Năm 1953, ông Nguyễn Vỹ - Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt lúc bấy giờ - đã đề xuất đổi tên thành Thung lũng Tình Yêu. Thung lũng Tình Yêu đẹp và cuốn hút bởi thung lũng sâu và đồi thông quanh năm xanh biếc. Năm 1972, một đập ngăn nước được xây dựng vắt ngang qua thung lũng tạo thành hồ Đa Thiện, làm tăng thêm sức quyến rũ cho cảnh quan chung, đồng thời xuất hiện thêm hai tên gọi khác bên cạnh Thung lũng Tình Yêu là đập 3 và hồ Đa Thiện 3. Du khách có thể men theo những lối mòn hoặc leo cả trăm bậc, đi qua những cổng hoa với màu sắc rực rỡ để lên đồi Vọng Cảnh. Từ đây, Thung lũng Tình Yêu hiện ra trong tầm mắt đẹp tựa một bức tranh sinh động. Năm 1998, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1591 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Núi Lang Bian

Núi Lang Bian nằm trên địa bàn huyện Lạc Dương, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 12km về phía bắc. Đây là địa điểm thích hợp cho các nhà dân tộc học, cho các du khách yêu văn hoá truyền thống đến nghiên cứu văn hoá của các dân tộc Nam Tây Nguyên. Núi Lang Bian còn được gọi là Núi Mẹ, gồm 2 ngọn, có độ cao 2.167m. Chuyện xưa kể rằng có một đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết - chàng K'lang và nàng Hơ Bian. Do lời nguyền thù hằn của hai bộ tộc mà hai người đã phải chia lìa. Nàng sau khi chết đã hóa thân thành dãy núi mà người dân tộc Hơ Ho-lạch gọi là Núi Mẹ và sữa từ bộ ngực của nàng đã tuôn tràn thành những dòng suối, dòng thác tươi mát cho đời. Từ đó hai ngọn núi được đặt tên là Lang Bian. Núi Lang Biang hay còn gọi là núi Bà với chiều cao 2.189m thuộc dãy Bidoup huyền thoại từ lâu đã trở thành điểm đến thường xuyên của du khách. Núi Langbiang còn nổi tiếng nhờ truyền thuyết gắn liền với lịch sử của người Cơ Ho bản địa về thiên tình sử nổi tiếng của chàng Lang và nàng Biang. Từ năm 2004, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận Lang Biang là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn Hóa , Thể thao và Du Lịch tỉnh Lâm Đồng

Lâm Đồng 1613 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Prenn

Thác Prenn là một thác nước ở thành phố Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm Đồng. Thác Prenn nằm cạnh quốc lộ 20, ở cửa ngõ vào Thành Phố Đà Lạt là một trong những Khu Du Lịch sinh thái về rừng, suối. Thác ở chân đèo Prenn cách trung tâm Đà Lạt khoảng 10 km. Thác nằm trong khu rừng nguyên sinh còn sót lại. Dòng nước từ trên ghềnh đá với độ cao hơn 20m cao đổ xuống trắng xóa như một dải lụa bạch trông tựa mái tóc của nàng Bạch Mao Tiên cô. Có thể vì thế mà một số du khách gọi là thác Tiên Sa. Thác Prenn bắt nguồn từ suối Prenn, khởi nguồn từ khu vực hố Tôm, suối Bảo Đại (Thung lũng sau Dinh 1 – Đà Lạt). Suối Prenn còn được gọi là Đạ Prền và Thác Prenn còn có tên cổ là Liang Tarding. Đến thác Prenn, du khách có thể tham quan, vui chơi giải trí và lên thăm đền thờ Âu Lạc, đền thờ vua Hùng tại tỉnh Lâm Đồng. Truyền thuyết thác Prenn còn gắn liền với lịch sử phát triển của Vương triều Chăm ở thế kỷ XVII thuộc triều đại Pôrômê (1625 – 1651). Từ năm 1998, thác Prenn được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng

Lâm Đồng 1636 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Cát Tiên

Di tích khảo cổ Cát Tiên là một quần thể các phế tích kiến trúc bằng gạch có quy mô rất rộng lớn, trải dài khoảng 15km theo tả ngạn sông Đồng Nai từ xã Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ và Gia Viễn (huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm Đồng). Kết quả khai quật khảo cổ (từ năm 1994 - 2006) nhiều phế tích kiến trúc đền tháp, mộ tháp, nhà dài, hệ thống máng nước, đường đá cổ,… đã được phát lộ. Các kiến trúc ở đây có quy mô lớn nhỏ khác nhau tùy vào công năng, có bình đồ vuông hoặc hình chữ nhật, cửa chính quay về hướng Đông. Quá trình khai quật đã tìm thấy hơn 1000 hiện vật gồm nhiều chất liệu như vàng, bạc, đồng, đá quý, gốm,… phong phú về loại hình như: ngẫu tượng Linga - Yoni, tượng thần Ganesa, thần Uma, nhẫn, hạt chuỗi, các lá vàng dập nổi hình của các vị thần, các linh vật Balamon giáo. Qua loại hình kiến trúc, hiện vật tìm được cho thấy đây là một thánh địa tôn giáo ảnh hưởng Ấn Độ giáo và là dấu tích của một nền văn hóa đặc sắc trong quá khứ. Di tích khảo cổ Cát Tiên là một phát hiện lớn của khảo cổ học Việt Nam cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Tư liệu khai quật khảo cổ cho thấy, văn hóa Cát Tiên có quá trình phát triển khá dài: Giai đoạn sớm vào khoảng thế kỷ thứ IV - VI và giai đoạn muộn có niên đại thế kỷ VII - 10 sau công nguyên. Đặc biệt quá trình phát triển của văn hóa Cát Tiên có mối quan hệ gần gũi với văn hóa Champa ở Nam Trung Bộ và văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo của đồng bằng Nam bộ Việt Nam. Theo ý kiến của cố giáo sư Trần Quốc Vượng trong hội thảo khoa học Di tích khảo cổ Cát Tiên, (tháng 3 năm 2001) đã kết luận: “ Di tích này có nhiều yếu tố bản địa độc đáo (nội sinh) đồng thời cũng có nhiều yếu tố bên ngoài (ngoại sinh - exogenous). Các yếu tố ngoại sinh đã thấy từ phía Tây Nam là Chân Lạp và từ phía Đông Bắc là Champa, bao gồm cả về văn hóa hữu thể và vô thể. Có thể những yếu tố văn hóa hữu thể hơi nghiêng về Chân Lạp còn những yếu tố vô thể lại nghiêng về Champa. Do vậy, di tích này có tính “ĐỨNG GIỮA và NÓ là CHÍNH NÓ”. Di tích khảo cổ Cát Tiên nằm ở khoảng giữa tuyến đường tỉnh lộ 721 nối quốc lộ 20 (ngã ba Madagui - huyện Đahuoai - tỉnh Lâm Đồng) với quốc lộ 14 (ngã ba Sao Bọng - huyện Bù Đăng - tỉnh Bình Phước). Trung tâm di tích nằm ở bờ Bắc sông Đồng Nai sát với vùng lõi của Vườn quốc gia Cát Tiên, cách Đà lạt khoảng 190km (về phía bắc) và Tp. Hồ Chí Minh khoảng 180km (về phía nam), đây là vị trí khá đắc địa trên bản đồ du lịch, rất thuận lợi cho các Tour du lịch từ Tp Hồ Chí Minh, Đà lạt và các tỉnh Tây Nguyên tới tham quan. Di tích khảo cổ Cát Tiên còn được mệnh danh là THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN, là nơi lưu giữ những bằng chứng của một nền văn hóa đặc sắc cách đây hơn 1000 năm lịch sử. Với hiện trường di tích rộng lớn và số lượng hiện vật phong phú, có giá trị đặc biệt như các lá vàng dập nổi hình các vị thần, vật linh Balamon giáo và sưu tập Linga - Yoni bằng vàng, đồng, đá, đá quý… trong đó có bộ ngẫu tượng Linga - Yoni khổng lồ được nhận định là lớn nhất Đông Nam Á (so sánh với các di tích cùng tích chất). Ngoài khu di tích khảo cổ Cát Tiên trên địa bàn huyện Cát Tiên du khách còn được tham quan Di tích Lịch sử kháng chiến Khu ủy khu VI và một số điểm sinh hoạt của Người Mạ, dân tộc bản địa lâu đời đã và đang sinh sống trên vùng đất huyền thoại này. Khu di tích khảo cổ Cát Tiên mang đậm dấu ấn văn hóa bản địa, nhưng vẫn thể hiện sự tiếp thu tinh hoa của những nền văn hóa khác trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại từ thế kỷ IV đến IX. Nơi đây gắn liền với một cộng đồng cư dân cổ có tổ chức, quy mô, với hệ thống kinh tế - xã hội thống nhất, chặt chẽ có trình độ phát triển cao (mà minh chứng thuyết phục nhất là sự xuất hiện chữ viết trên các mảnh vàng). Sự hình thành và phát triển của di tích đóng vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử của vùng Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích khảo cổ Cát Tiên (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 31/12/2014) Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Lâm Đồng 1657 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Danh lam thắng cảnh Núi lửa Nâm B’Lang

Núi lửa Nâm B’Lang (còn có tên gọi khác là Núi lửa Chư R’luh), thuộc địa phận xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Đây là núi lửa được tạo thành trong giai đoạn cuối của lịch sử phát triển địa chất - Công viên địa chất toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO Đắk Nông. Đây là núi lửa duy nhất trong vùng Công Viên Địa Chất Đắk Nông tạo ra hệ thống hang động dung nham, có quy mô và độc đáo bậc nhất Đông Nam Á. Theo khảo sát, nghiên cứu của các nhà khoa học, quá trình hoạt động các dòng dung nham từ miệng Núi lửa Nâm B’Lang chảy về tất cả các hướng khác nhau (Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam và Đông Nam). Đến nay, phát hiện được 4 hệ thống hang động, gồm 50 hang động có đặc điểm phân bố và cơ chế tạo thành hang, cửa hang phong phú, đa dạng và đẹp. Có nhiều hang phân bố ở tầng nông, nhưng cũng có nhiều hang phân bố ở tầng sâu hàng chục mét. Núi lửa Nâm B’Lang, phân bố ở độ cao khoảng 601m so với mực nước biển với chiều sâu miệng núi lửa khoảng 59m. Trục dài núi khoảng 160m, trục ngắn khoảng 100m; diện tích miệng núi lửa khoảng 4ha, diện tích núi lửa khoảng 1,6km2. Khu vực Núi lửa Nâm B’Lang nằm gần các bon, buôn giàu truyền thống văn hóa của các dân tộc M’nông, Ê đê… với các lễ hội, nghề truyền thống và các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng tạo thuận lợi để kết nối tour, tuyến du lịch, khai thác và phát triển du lịch trong tương lai. Ngày 12/3/2024, Bộ Văn Hóa -Thể Thao -Du Lịch đã ban hành Quyết định số 611 xếp hạng Di tích quốc gia đối với Danh lam thắng cảnh Núi lửa Nâm B’Lang, xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.

Lâm Đồng 1817 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di sản của Hoàng tộc Chăm

Kho mở Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm tọa lạc tại thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Nơi đây trưng bày hơn 100 hiện vật nguyên gốc mang đậm giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc Chăm và được phân thành 8 nhóm sưu tập. Trong đó, giá trị nhất là bộ vương miện của vua Po Klaong Mânai và búi tóc của Hoàng hậu Po Bia Som bằng chất liệu vàng với đường nét chạm khắc hoa văn rất tinh xảo, độc đáo ở đầu thế kỷ XVII. Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị về lịch sử ra đời của vương triều Chăm xưa, về trang phục, trang sức, vương miện, vũ khí, đồ ngự dụng trong hoàng cung,… được các đời hậu duệ vua Chăm lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau, trải qua hơn 400 năm. Trước năm 1975, Bộ sưu tập di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm được cất giữ kín trong kho vì những lý do tâm linh, tín ngưỡng và phần quan trọng khác là an ninh, an toàn cho di sản và người bảo vệ di sản. Cho đến những năm 1991 - 1992 thì việc khảo sát, nghiên cứu và lập Hồ sơ khoa học Đền thờ vua Po Klaong Mâhnai và Bộ sưu tập mới từng bước được tiến hành và hoàn thành trình Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng tại Quyết định số 43/Văn Hóa /Quyết Định ngày 7/01/1993. Sau khi được xếp hạng, nhận thức được việc phải bảo vệ lâu dài Bộ sưu tập duy nhất của tổ tiên còn lại nên gia đình hậu duệ Hoàng tộc Chăm là bà Nguyễn Thị Thềm (1911 - 1995) đã đồng ý từng bước để Bảo tàng Bình Thuận thiết kế, trưng bày Bộ sưu tập dưới dạng “Kho mở”. Tuy nhiên, do ngôi nhà của bà Thềm được xây dựng những năm đầu của thập niên 1960, không gian khá chật hẹp, tầng dưới để ở, tầng trên chia thành 2 phòng để trưng bày nên gia đình chỉ mở cửa phục vụ cho các đoàn nghiên cứu, đoàn chính khách là chính, chưa phục vụ rộng rãi cho du khách tham quan chiêm ngưỡng các hiện vật gốc. Nhiều năm qua, chính quyền các cấp và các ngành chức năng cũng đã triển khai nhiều việc nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm. Tuy nhiên, hiệu quả phát huy vẫn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với giá trị của di sản. Chính vì vậy, cần có hướng tiếp cận mới để Bộ sưu tập thực sự phát huy giá trị trong đời sống xã hội phát triển, đặc biệt là sự bùng phát về du lịch văn hóa. Qua thời gian khảo sát, thống kê, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận đã phân loại Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm thành 8 sưu tập như sau: Sưu tập vương miện vua và hoàng hậu; Sưu tập vũ khí: Đao, kiếm; Sưu tập nhạc khí (Phèng la); Sưu tập đồ thờ tự (tín ngưỡng, tâm linh); Sưu tập vải (vải thổ cẩm và vải có nguồn gốc từ nước ngoài); Sưu tập gốm sứ; Sưu tập giấy: Sắc phong một số đời vua triều Nguyễn và một số loại tư liệu về đất đai, địa bạ, các văn bản hành chính sao chép bằng chữ Hán Nôm từ những sắc phong các đời vua nhà Nguyễn; Sưu tập gỗ: Rương đựng đồ hoàng tộc, mũ vệ binh. Nguồn Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2028 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Linh Quang

Từ khi tạo dựng đến nay, người dân trên đảo gọi tên chùa là “Linh Quang Tự” nhằm cầu mong hào quang, ánh sáng của chùa luôn linh hiển soi sáng để cứu độ dân chúng trên đảo có cuộc sống an bình và hạnh phúc. Linh Quang Tự là ngôi chùa khởi đầu gắn liền với sự truyền bá ánh sáng Phật Giáo ở Phú Quý. Không chỉ là một nơi có quang cảnh đẹp, mà Linh Quang Tự là ngôi chùa tiêu biểu trên các lĩnh vực lịch sử, văn học, nghệ thuật so với các ngôi chùa khác ở trên đảo. Linh Quang Tự là ngôi chùa cổ nổi tiếng về qui mô cũng như nghệ thuật kiến trúc, tôn giáo, lễ nghi, có những cảnh trí thiên nhiên đa dạng xứng đáng là danh lam thắng cảnh của đảo Phú Quý. Nếu tính niên đại chính thức của ngôi chùa theo gia phả để lại thì chùa được kiến tạo, tu bổ lại vào năm Đinh Mão 1747 đời Vua Lê Hiển Tông – niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8. Đến nay (2017) ngôi chùa đã có niên đại 270 năm và cũng đến nay đây là một trong những ngôi chùa có niên đại sớm nhất ở Bình Thuận. Với những giá trị và ý nghĩa tiêu biểu đó, chùa Linh Quang được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng thắng cảnh cấp Quốc gia tại Quyết định số 51 Quyết Định /Bộ Trưởng ngày 12/01/1996. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 1948 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đồi Cát Trắng Mũi Né ( Bàu Trắng)

Bàu Trắng (hay Bàu Cát, Bạch Hồ, Bàu Sen) là một hồ nước ngọt ở tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 62 km về hướng Đông Bắc, thuộc thôn Hồng Lâm, xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình (trước đây thuộc xã Bình Nhơn, huyện Hòa Đa cũ). Theo truyền thuyết nơi đây là một hồ lớn, sau người dân đắp đập cát chạy vắt ngang hồ để đi qua. Hồ lớn này từ đó bị chia thành 2 phần: tiểu hồ và đại hồ. Do "Bàu" trong tiếng địa phương nghĩa là "hồ" nên từ rất lâu, người địa phương đã gọi là tiểu hồ là Bàu. Năm 1867 khi Hồ Chí Thông đi ngang qua đây, thấy cảnh đẹp của Bàu Trắng mà cụ gọi là "Bạch Hồ". "Bạch Hồ" bắt đầu xuất hiện trong thơ của Nguyễn Thông và cũng từ đó trở thành tên mà giới thi nhân gán cho Bàu Trắng. Bàu Trắng chia thành 2 phần bởi một đồi cát vắt ngang qua. Nhân dân ở đây từ xưa đã gọi là Bàu Ông và Bàu Bà. Bàu bà rộng hơn Bàu Ông và chứa lượng nước nhiều hơn. Độ sâu của Bàu Bà là 19m vào mùa mưa. Xung quanh Bàu Bà trồng rất nhiều sen. Sen được cư dân trồng với mục đích thu hoạch hạt và ngó. Chính vì việc trồng sen tại khu vực này khiến cho cảnh quan thêm phần đặc sắc. Nhỏ hơn Bàu Bà, thế nhưng có một con đê ngăn cách giữa 2 hồ lại. Bàu ông nước cạn hơn và không ngọt bằng Bàu Bà. Sở hữu vẻ đẹp thiên nhiên hiếm có, Bàu Trắng là điểm tham quan nổi tiếng mà hầu hết du khách không thể bỏ qua mỗi khi chọn Bình Thuận là nơi nghỉ dưỡng, tham quan, vui chơi giải trí. Với tổng diện tích khoảng 45 ha, điểm du lịch bao gồm 23,2 ha thuộc đất 3 loại rừng do Ban Quản lý rừng phòng hộ Lê Hồng Phong quản lý, còn lại 2,8 ha đất và 19 ha mặt nước do Uỷ Ban Nhân Dân xã Hòa Thắng quản lý. Năm 2013, nơi đây được công nhận là địa điểm nằm trong top 100 điểm đến ấn tượng của Việt Nam, trong giai đoạn 2014 - 2016 tiếp tục nhận danh hiệu điểm đến ưa thích Asean và top 100 điểm yêu thích khu vực phía Nam. Đặc biệt năm 2019, Bàu Trắng vinh dự đón nhận Bằng xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 1967 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa núi Tà Cú

Chùa núi Tà Cú (người địa phương hay gọi đơn giản là chùa Núi) là một ngôi chùa tọa lạc trên núi Tà Cú ở độ cao hơn 400 m, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, gần Quốc lộ 1, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam. Chùa này là một di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam. Vào giữa thế kỷ 19 nhà sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức từ Phú Yên vào Bình Thuận dựng một thảo am ở làng Kim Thạnh (Bàu Trâm) vừa tu hành vừa bốc thuốc. Ông đã từng tu hành và góp nhiều công sức chăm lo Phật sự ở nhiều chùa tại Bình Thuận như chùa Cổ Thạch, Linh Sơn (Tuy Phong), Phước Hưng (Phan Thiết) và một số chùa ở đảo Phú Quý. Năm 1872 nhà sư lên núi Tà Cú tu hành trong một hang đá (sau này gọi là hang Tổ). Cho đến lúc mất, sư Hữu Đức không xuống núi nữa. Lúc đương thời nhà sư Hữu Đức là một thầy thuốc giỏi. Năm Tự Đức thứ 33 (1880) hoàng thái hậu bệnh nặng, chư thần tâu xin rước sư về giúp trị bệnh nhưng nhà sư từ chối, chỉ gởi người về triều. Bệnh hoàng thái hậu hết, vua Tự Đức mới ban cho tên chùa là Linh Sơn Trường Thọ và nhà sư là "Đại lão hòa thượng". Đến khi nhà sư Hữu Đức viên tịch (nhằm ngày 5 tháng 10 năm 1887 âm lịch) thì sư Tâm Hiền lập ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn và chùa Linh Sơn Trường Thọ là chùa Trên. Phía trên chùa, cách hang Tổ khoảng 50 m là tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài 49 m, cao 7 m. Tác phẩm do ông Trương Định Ý chủ trì, được đúc bằng bê tông cốt thép trong đợt trùng tu năm 1963. Cách pho tượng khoảng 50 m về phía dưới là nhóm tượng Di đà Tam tôn xếp thành hàng ngang, xây trên đài sen: tượng A Di Đà ở giữa cao 7 m, bên trái là tượng Quán Thế Âm và bên phải tượng Đại Thế Chí đều cao 6,5 m. Tháp mộ của Tổ và của các nhà sư trụ trì đã qua đời được chia thành hai cụm ở trước điện thờ và sau điện thờ. Tháp Tổ nằm trước điện thờ, bên cạnh có mộ con cọp tương truyền là đã được sư Hữu Đức thuần hóa. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2145 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Tú Luông

Đình Tú Luông được gọi theo tên của làng Tú Luông ngày trước. Thuở sơ khai, đình dựng bằng tranh lá đơn sơ và dần dần nhiều thập niên sau đó mới được tôn tạo bề thế trang nghiêm. Như những đình khác ở Bình Thuận, đình Tú Luông do toàn thể hương chức và Nhân dân trong làng đóng góp công của tạo dựng nên. Năm 1995 - 1996, qua khảo sát, đối chiếu từ kết cấu kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật trang trí tạo hình, các di vật cổ còn lại ở đình và tìm hiểu gia phả của một số tộc họ định cư lâu đời ở trong làng, Bảo tàng và Sở Văn hóa thông tin Bình Thuận xác định niên đại tạo dựng đình Tú Luông vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Hiện ngôi đình tọa lạc tại phường Đức Long, cách trung tâm thành phố Phan Thiết khoảng 1,5 km về hướng Tây Nam. Theo ông Nguyễn Hữu Tứ - Trưởng Ban quản lý đình làng Tú Luông, lúc mới khai lập, Tú Luông là một trong những làng quê có vị thế tọa lạc lý tưởng, thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống và sớm có kinh tế ổn định ở Phan Thiết. Ở đình Tú Luông còn lưu giữ bức hoành cổ khắc ghi chữ Hán nói rõ về địa dư và cảnh quan của làng. Quần thể kiến trúc đình Tú Luông lúc mới tạo dựng khá quy mô, bề thế bao gồm đình thờ Thần, Tiền đường, cổng Tam quan, bình phong, gian thờ Tiền hiền, nhà Võ ca, nhà Nhóm, nhà bếp, cổng hậu và bức tường thành bao bọc xung quanh. Đình Tú Luông có một kết cấu kiến trúc đặc sắc riêng, ở đây sử dụng đồng thời 2 dạng kiến trúc dân gian tiêu biểu ở địa phương, đó là dạng kiến trúc “tứ trụ” và “trùng thiềm điệp ốc” phối kết hợp. Trong kết cấu kiến trúc, gỗ, gạch đóng vai trò quan trọng. Trong đó gỗ là vật liệu chính yếu để tạo nên bộ khung liên kết của từng nóc đình, tiếp đến là chất vữa pha chế bằng kinh nghiệm dân gian từ vôi, vỏ sò, cát, mật đường, nhựa cây... để làm chất kết dính xây dựng nên các bức tường vững chắc và các nóc đình trang nghiêm, cổ kính. Các vật liệu lợp và lát nền vẫn còn bảo lưu, đó là ngói âm dương cổ và gạch bát tràng vốn được sử dụng phổ biến trong các công trình kiến trúc dân gian lúc bấy giờ ở địa phương. Ngoài ra, ở đình còn lưu lại 2 chiếc đại hồng chung đúc đồng có niên đại vào cuối thế kỷ XIX. Cả 2 chiếc đại hồng chung đóng vai trò quan trọng trong việc hòa âm nhạc lễ hàng năm của đình. 6 long khám, 4 hương án, 3 bức bao lam và 2 chiếc án thư. Đây là những di vật đóng ghép bằng gỗ quý, được chạm trổ, điêu khắc công phu, sắc nét. Những di vật này có chức năng quan trọng trong việc bài trí thờ phụng ở nội thất. 20 bức hoành phi và 16 câu đối, toàn bộ chạm khắc chữ Hán cổ sắc nét trên những loại gỗ tốt. Mỗi bức có kích cỡ khác nhau, một số có chạm lộng viền quanh những hình tượng giao long, hoa lá thanh nhã. Nội dung ca ngợi uy quyền của thần linh, truyền lại cho con cháu về công ơn to lớn của ông bà, tổ tiên; chỉ giáo thế hệ đi sau nếp thuần phong mỹ tục và truyền thống tốt đẹp của dân tộc… Đình Tú Luông đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 2001. Đây là nơi diễn ra các lễ hội dân gian trong không gian văn hóa. Hằng năm đình đều tổ chức rất nhiều đợt tế lễ. Lớn nhất là hai lệ xuân thu nhị kỳ vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch. Thông qua đây, thế hệ hôm nay hiểu hơn về lịch sử địa phương, từ đó có ý thức trong việc giữ gìn giá trị văn hóa tốt đẹp của tiền nhân xưa. Nguồn Cổng thông tin điện tử phường Đức Long, thành phố Phan Thiết , tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2006 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền thờ và khu mộ cụ Nguyễn Thông

Ông sinh ngày 28/5/1827 tại làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An), có tên tự là Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am. . Thông minh, ham học nhưng Nguyễn Thông lại sớm mồ côi. Với sự nỗ lực vươn lên của mình, ông đã làm Tu Nghiệp Quốc Tử Giám. Khi Pháp xâm chiếm Nam Kì, ông cùng các sĩ phu nơi đây không chịu hợp tác và đi tị địa tại Bình Thuận. Cả cuộc đời mình, ông hết lòng lo cho nước, cho dân…Khi ông tròn 10 tuổi thì mẹ bạo bệnh qua đời. 7 năm sau thì cha ông cũng mất. Gia đình ông từ đấy lâm vào cảnh khốn khó, do đó Thông phải bươn chải kiếm sống để lo cho cả nhà. Ham học nhưng chẳng có thầy giáo kèm cặp nên hai anh em phải tự học với nhau. Cho đến khi ông Nguyễn Nhữ Hiền được triều đình bổ nhiệm đến làm phủ ở Tân An thì hai anh em tìm đến xin thọ giáo. Thời gian học thầy Hiền chẳng được bao lâu thì thầy lại bị điều về kinh đô. Năm 1849 (năm Kỷ Dậu, triều vua Tự Đức), Nguyễn Thông đã thi đỗ cử nhân, nhưng đến kì thi hội ông đã bị đánh rớt chỉ vì lí do là tập bài thi bị dính mực. Cũng bởi nhà nghèo nên Thông không thể tiếp tục sự nghiệp đèn sách được nữa và ông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong – tỉnh An Giang. Năm 1855, ông ra Huế, rồi sau đó một năm được thăng chức Hàn Lâm viện tu soạn, vào làm trong nội các, tham gia soạn sách “Nhân sự kim giám” (Gương vàng soi việc người). Khi Pháp xâm chiếm miền Đông Nam Kì vào năm 1859, Nguyễn Thông đã tình nguyện tòng quân và làm tham mưu đắc lực cho Thống đốc quân vụ Tôn Thất Hiệp, trông coi việc cơ mật. Đại đồn Chí Hòa bị thất thủ năm 1861, rồi tỉnh Biên Hòa cũng bị Pháp chiếm đóng. Sau khi chiến đấu ở trận Chí Hòa, cậu ông là Trịnh Quang Nghi cùng bạn là Phan Văn Đạt lại chiêu mộ nghĩa binh chống quân Pháp ở Gò Công và Tân An. Nguyễn Thông đã tham gia phong trào ấy. Phan Văn Đạt bị Pháp bắt giết, còn Thông may mắn thoát được. Năm sau cậu ông lại giúp Trương Định rất đắc lực trong chức Tham tán quân vụ. Đến năm 1862, Pháp buộc ta phải nhượng 3 tỉnh miền Đông, nhờ cụ Phan Thanh Giản đề cử nên Nguyễn Thông được bổ nhiệm làm Đốc học Vĩnh Long. Tại đây ông vẫn giữ liên lạc với cậu, đồng thời vẫn liên lạc với các sĩ phu yêu nước, trong đó có những sĩ phu dời gia đình từ miền Đông sang. Cũng thời gian này, ông đã cho xây dựng lại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long. Năm 1867, Pháp đã bức chiếm thành Vĩnh Long, ông và nhiều sĩ phu Nam Kì không chịu hợp tác nên đã tị địa ra tại Bình Thuận. Nguyễn Thông đã cùng chiến hữu bàn nhau việc điều tra, liên lạc với Biên Hòa, đồng thời cũng tích cực phát triển nghề nông, sản xuất lương thực lo kế lâu dài đánh Pháp. Chính ông đã tổ chức việc đi thám hiểm các vùng cao nguyên La Ngư, Ba Dầu (Bình Tuy), ghi rõ địa hình, địa thế khả năng khai hoang và vẽ rõ địa đồ. Sau đó, ông bị điều động đi Khánh Hòa, rồi ra Quảng Ngãi, Huế. Cuối 1867, ông làm Án Sát tỉnh Khánh Hòa và dâng sớ xin truy tặng tên thụy cho cụ Phan Thanh Giản và điều trần 4 vấn đề ích nước lợi dân nhưng bị triều đình Huế bác bỏ. Năm 1870, Nguyễn Thông làm Biện lí Bộ hình rồi Bố Chánh Quảng Ngãi. Đặc biệt ở Quảng Ngãi trong 3 năm, ông đã làm nhiều việc có lợi ích cho nông dân, nhất là công tác thủy lợi. Cũng thời gian này, ông bị mang một nỗi oan án là bị tố cáo xử án thất xuất nên bị triều đình cách chức, bị tống giam vào ngục và bị xử trượng. Người dân và quân lính đều rất thương mến ông nên đứng ra xin quan Khâm sai Nguyễn Bính mới vào nhậm chức tại Quảng Ngãi xem xét lại tội trạng của ông. Có người còn tự nguyện đến tận kinh thành gặp vua kêu oan cho ông. Vua thương tình nên tha cho ông và cho điều tra lại mới hay vụ việc này là do tên cường hào Lê Doãn vu cáo ông. Thời gian này, ông được triều đình chấp nhận 2 nguyện vọng, đó là: tổ chức trồng cây và định rõ việc học sử, xin ban cấp sách học các trường. Đến năm 1876, ông trở ra Huế làm Tu nghiệp Quốc Tử Giám. Ông cùng các ông Bùi Ước, Hoàng Dung Tân khảo duyệt bộ “Khâm định Việt sử cương mục”. và cũng nhân dịp về kinh đô Huế lần này, ông soạn bộ “Việt sử cương giám khảo lược”. Đồng thời ông dâng sớ và được chuẩn y việc khai khẩn vùng Tây Nguyên từ biên giới Campuchia đến Quảng Trị, thu nạp dân Nam Kì ra. Thế nhưng cuối cùng việc này đã bị quân Pháp phản đối nên triều đình Nguyễn ra lệnh bãi bỏ. Năm 1880, Nguyễn Thông làm Phó sứ diễn nông kiêm Đốc học tỉnh Bình Thuận, ông còn bàn với những người đồng hương tị địa chính thức lập Đồng Châu Xã để họ có tổ chức tương tự làm ăn, sản xuất ổn định cuộc sống tại Bình Thuận sau khi chạy lánh từ trong Nam ra. Ông dựng một ngôi nhà nhỏ bên cạnh sông Phan Thiết (nay là khu vực di tích Dục Thanh), đặt tên là Ngọa Du Sào (Tổ nằm chơi) để đọc sách, làm thơ, trên vách có vẽ một số cảnh tiêu biểu mà đời ông trãi qua. Ông chính thức coi Bình Thuận là quê hương thứ 2 của mình. Năm 1884, Nguyễn Thông mất. Mộ ông được xây cất dưới chân núi Cố (núi Ngọc Sơn) thuộc thôn Ngọc Sơn – phường Phú Hài – thành phố Phan Thiết – Bình Thuận. Ngôi mộ cụ Doanh điền sứ Bình Thuận Nguyễn Thông được xây dựng khá đơn giản và gần gũi. Mộ có chiều dài gần 9 mét rưỡi, rộng gần 6 mét rưỡi. Phần chính mộ đắp hình con lân như những ngôi mộ cổ của người đời xưa. Xung quanh khu mộ được trồng cây cảnh rất đẹp, nhìn vào khu lăng mộ Doanh điền sứ Bình Thuận bây giờ trông rất hoành tráng. Khu lăng mộ này đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử năm 1999. Tham quan khu lăng mộ, chúng tôi thật sự bồi hồi khi nhớ tới công lao của nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhà giáo dục, nhà văn, nhà viết sử… Nguyễn Thông đối với dân tộc ta. Nguồn Cổng thông tin điện tử phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết , tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2101 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử Sở Trà

Ngay trong khuôn viên của Trung đoàn 726, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức (Đắk Nông) có 1 ngôi nhà cổ, màu trắng, xây theo kiểu kiến trúc Pháp. Theo nhận định của chuyên gia, nơi đây trước kia là địa điểm Sở Trà do người Pháp xây dựng tại Đắk Nông. Khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, thực dân Pháp vào vùng đất Tây Nguyên mở các đồn điền, trồng các loại cây như cà phê, trà và thuê công nhân là người dân tộc thiểu số. Năm 1962, Đồn điền lúc đó rộng khoảng 20ha và có khoảng 80 công nhân làm việc tại đây. Trong đó, người dân tộc thiểu số làm việc tại đồn điền có khoảng 40 người. Đặc biệt, có 12 tù nhân chính trị bị bắt về làm việc tại đây. Những công nhân làm việc tại đồn điền được trả 30 đồng/tháng. Có những người không lấy tiền thì sẽ quy ra đổi thành gạo hoặc muối. Cuối năm sẽ được thưởng thêm bằng thịt bò. Một ngày, người công nhân tại đồn điền trà làm việc từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, buổi trưa sẽ được cho ăn uống và nghỉ ngơi. Khoảng năm 1966 thì đồn điền giải thể. Qua khảo sát, di tích lịch sử Sở Trà được bảo tồn khá nguyên vẹn với 1 công trình xây dựng bằng kết cấu bê tông cốt thép, theo kiểu kiến trúc Pháp những năm đầu thế kỷ XX. Hiện nay, về quá trình xây dựng ngôi nhà vào ngày tháng năm nào chưa có tư liệu cụ thể. Diện tích khuôn viên ngôi nhà khoảng 200m². Ngôi nhà gần như còn nguyên vẹn với 1 trệt, 1 lầu và 1 tầng lửng. Bên trong ngôi nhà có 8 gian phòng và có 1 lò sưởi ấm xây thông từ tầng trệt lên lầu 1 và tầng lửng để sưởi ấm khi giá lạnh. Phía sau phòng tầng trệt có một hầm bí mật thoát hiểm nhưng đã che đậy miệng hầm. Cho đến nay, dù được Trung đoàn 726 quản lý nhưng chưa khám phá khai thông căn hầm bí mật này. Lân cận khu vực công trình có một số cây ăn quả, cây trà cổ thụ mà theo người dân địa phương, những cây cổ thụ này khoảng 100 năm tuổi. Trong đó có 2 cây me tây đã được công nhận là cây di sản Việt Nam vào tháng 9/2022. Di tích lịch sử Sở Trà được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Lâm Đồng 3394 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Tháp Nước Phan Thiết

Tháp nước Phan Thiết nằm bên sông Cà Ty xây gần 90 năm trước, do hoàng thân Xuphanuvong (Lào) thiết kế, hiện là biểu tượng của tỉnh Bình Thuận. Tháp nước Phan Thiết (còn được gọi "Lầu nước") được người Pháp xây dựng 1928-1934 theo chủ trương quy hoạch đô thị của nhà cầm quyền đương thời, phục vụ cung cấp nước sinh hoạt cho Tòa Công sứ Pháp (nay là trụ sở UBND Bình Thuận) và người dân nội thị Phan Thiết. Vị trí xây dựng tháp nước nằm trên đất làng Long Khê, bên tả ngạn sông Cà Ty, cao ráo thoáng mát, cách Tòa Công sứ chừng 350 m. Bản thiết kế tháp nước do hoàng thân Xuphanuvong (Lào, khi đó ông là du học sinh trường Albert Sarraut tại Việt Nam) vẽ, được Sở Công chánh Hà Nội duyệt và công trình được đưa ra đấu thầu. Trong số hai nhà thầu Pháp và hai nhà thầu Việt, thì nhà thầu Ưng Du (người gốc Huế, làm việc ở Bình Thuận) trúng thầu. Tháp nước được xây dựng theo hình trụ bát giác đều. Chiều cao từ đế lên đỉnh tháp là 32 m. Tổng thể chia làm 3 phần, gồm: thân tháp, bầu đài và phần mái. Phần thân tháp có hình trụ bát giác, mỗi cạnh rộng 3,9 m càng lên cao càng thu nhỏ lại. Đường kính chân tháp dài 9 m, chu vi 31,2 m, diện tích sàn 73,4 m2. Dọc theo các cạnh của thân tháp từ trên xuống có bố trí 5 ô thông gió được trang trí các hoa văn chữ triện tương ứng với 5 chữ: "Hỷ", "Phúc", "Thọ", "Kiết", "Lộc". Hàm ý cầu chúc cho muôn người vui vẻ, hạnh phúc, trường thọ, thịnh vượng và no ấm. Riêng cạnh phía Tây ô thông gió chữ "Lộc" được thay bằng cửa sắt ra vào tháp. Phần bầu đài, tức là bồn nước, cũng được thiết kế hình bát giác cao 5 m, đường kính 9 m, chứa 350 m3 nước. Xung quanh bầu đài có 8 hình tròn được đắp nổi bằng mảnh sành sứ cách điệu bốn chữ U.E.P.T, viết tắt của cụm từ tiếng Pháp "Usine des Eaux de Phan Thiet" (nghĩa là Nhà máy nước Phan Thiết). Với đặc điểm kiến trúc vươn cao nên công trình cũng được sử dụng như một cột cờ. Thạc sĩ Nguyễn Chí Phú, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Bình Thuận cho biết, trong quá trình xây dựng, các chuyên gia và nhân công đã tuân thủ nghiêm ngặt thiết kế kỹ thuật. Sỏi phải đem rửa 5 lần cho sạch cát bụi. Cát đúc cũng phải rửa 3 lần cho sạch chất bẩn. Sắt đúc phải dùng giấy nhám chà xát cho hết hoen rỉ. Ván dùng làm cốt pha phải bào láng để khi tháo ra không cần phải tô trét gì thêm. Nhờ đó, công trình được vững chãi, bền bỉ đến ngày hôm nay. Trải qua gần 90 năm tồn tại, dù trước bom đạn chiến tranh và môi trường khắc nghiệt, nhất là qua hai trận lũ lịch sử năm Nhâm Thìn (1952) và Quý Dậu (1993), tháp nước vẫn đứng vững uy nghi giữa lòng thành phố, trở thành biểu tượng thiêng liêng, đi vào thơ ca và âm nhạc của xứ biển Phan Thiết. Ngày 19/10/2018, tháp nước Phan Thiết đã được UBND Bình Thuận quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh. nguồn: Du lịch Phan Thiết

Lâm Đồng 4032 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Dinh Bảo Đại 1

Đà Lạt nổi tiếng với 3 dinh thự thời vua Bảo Đại là Dinh 1, Dinh 2, Dinh 3 gắn liền với những nốt lịch sử thăng trầm của đất nước ta. Năm 1940, một người triệu phú Pháp tên Robert Clément Bourgery đã cho xây dựng Dinh 1. Năm 1949 thì cha vợ của vua Bảo Đại đã góp tiền để vua mua lại căn dinh thự này. Vua Bảo Đại đã đặt Tổng Hành Dinh tại đây để làm việc trong suốt những năm làm Quốc Trưởng giai đoạn 1949 – 1954. Ngoài Đà Lạt, vua Bảo Đại còn sở hữu một dinh thự rất nổi tiếng khác ở Vũng Tàu đó chính là Bạch Dinh. Năm 1956, Dinh 1 đã chuyển sang cho Ngô Đình Diệm dùng. Sau đó nhiều năm thì nơi này trở thành nơi nghỉ ngơi của các nguyên thủ quốc gia tới năm 1975. Vào năm 2014, chính quyền địa phương đã đầu tư khôi phục, tu sửa Dinh 1, đưa nơi này vào hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng tại Đà Lạt. Dinh 1 Đà Lạt (Dinh Bảo Đại) đã trải qua nhiều lần tu sửa. Khuôn viên bên ngoài được thiết kế rộng rãi và được bố trí sẵn các bàn ghế rất sang trọng. Bước qua cánh cổng vào khuôn viên có hàng trăm loài hoa đua hương khoe sắc, khung vườn cờ khổng lồ, dải bậc tam cấp 7 màu, hàng trăm chiếc đèn lồng treo lủng lẳng... Đài phun nước mang đậm nét Châu Âu cũng thu hút rất nhiều du khách. Bước lên lầu 1, ngoài khu vực sảnh chính thì hai bên của dinh là 2 phòng khách lớn, phía sau là 4 căn phòng lớn nhỏ khác nhau. Lúc trước, những căn phòng này được dùng làm phòng chuyển tiếp, phòng văn thư, phòng bếp và phòng WC. Cuối lầu 1 là một phòng chụp hình rất hoành tráng và nguy nga. Trong đó có cả ngai vàng, võng lọng sơn son thiết vàng... Khi bước lên lầu 2 của Dinh 1 Bảo Đại, bạn sẽ thấy 3 căn phòng ngủ khác nhau. Căn thứ nhất là phòng ngủ của mẹ vua Bảo Đại (bà Từ Cung). Phòng thứ 2 là phòng ngủ của vua Bảo Đại. Kế tiếp là phòng ngủ của Nam Phương hoàng hậu, nằm đối diện với dãy hành lang của dinh. Có thể nói, căn phòng thứ 2 là quan trọng nhất trong dinh 1 của vua Bảo Đại. Đây là nơi chuyên diễn ra những buổi hội họp quan trọng dưới thời của vua Bảo Đại từ năm 1949 cho đến năm 1954. Đây cũng là nơi bàn về các chiến dịch, chiến sự vào năm 1955 đến năm 1963. Đến chính quyền của Ngô Đình Diệm, ông mới sửa sang lại phòng của vua Bảo Đại và đào đường hầm bí mật tại đây. Lối đi xuống đường hầm được ngụy trang y hệt một giá sách bên phải giường ngủ. Lối thoát này dẫn ra bãi trực thăng phía sau đồi của dinh 1. Đặc biệt ở khu dinh thự này là những công trình xây dựng đậm chất quân sự, bạn sẽ không khỏi bất ngờ và choáng ngợp trước vẻ đặc sắc của nó. Đầu tiên là một sân rộng đáp trực thăng, kho xăng, lối đi thoát hiểm (đường hầm). Cánh cửa hầm được lắp thêm kim loại có sức nặng vài trăm kilogam, pháo, kính chống đạn... Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 4358 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Căn Cứ Kháng Chiến Khu 6 Cát Tiên

Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến khu VI Cát Tiên có tổng diện tích gần 50 hecta, ở địa bàn thôn 5, xã Đức Phổ, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Đây là một địa chỉ lý tưởng thu hút nhân dân và du khách yêu thiên nhiên, ưa khám phá và tìm hiểu lịch sử, truyền thống cách mạng dân tộc đến tham quan. Di tích Khu VI, Cát Tiên là công trình có ý nghĩa lịch sử quan trọng, ghi lại những công lao và chiến tích của các thế hệ cha anh trong công cuộc đấu tranh chống giặc Mỹ xâm lược, giai đoạn 1963 - 1966. Khuôn viên di tích Khu VI, Cát Tiên được thiết kế hài hòa, khoa học và đẹp mắt, phù hợp với không gian cảnh quan, với hệ thống đường nội bộ trải bê tông sạch đẹp uốn lượn quanh các ao hồ trong xanh thoáng mát; Tượng đài uy nghi tọa lạc trên đỉnh đồi trung tâm đã tạo nên điểm nhấn thu hút sự chú ý của nhân dân và du khách khi đến tham quan di tích Khu VI, Cát Tiên. Cách đồi Tượng đài không xa là nhà trưng bày với 108 hiện vật đã sưu tầm được và một số loại vũ khí thô sơ được phục chế phục vụ cho công tác trưng bày và thuyết minh. Rải rác trên những sườn đồi xanh rợp bóng mát của các loại cây rừng là công trình các lán trại, hầm trú ẩn tái hiện không gian làm việc, sinh hoạt của “Các cơ quan Khu ủy, Quân khu” với tổng số 23 hạng mục, trong đó, cơ quan Khu ủy có 12 hạng mục và cơ quan Quân khu là 11 hạng mục. Theo tư liệu lịch sử, trong giai đoạn từ năm 1963 - 1966 Khu ủy, khu VI Cát Tiên đã có những đóng góp quan trọng đánh dấu sự phát triển lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng nước ta. Thời gian đầu, Khu VI là nơi tập trung củng cố và chuẩn bị những điều kiện cần thiết nhằm phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ, vùng giải phóng, tạo thế và lực để phong trào cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi to lớn. Đặc biệt trong Đông - Xuân năm 1964 - 1965, phong trào cách mạng ở Khu VI đã có bước phát triển nhảy vọt cả chiều rộng lẫn chiều sâu; quân và dân Khu VI đã chủ động tích cực phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch trong chiến dịch Đồng Xoài mùa Hè năm 1965, góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Mùa khô năm 1965 - 1966, quân và dân Khu VI đã đánh thắng cuộc phản công lần thứ nhất của địch ở chiến trường Khu VI. Từ đây, quân và dân Khu VI liên tục làm thất bại kế hoạch bình định, tìm diệt của địch trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966 - 1967), đến mùa khô 1967 - 1968, quân và dân Khu VI đã đẩy mạnh các cuộc tiến công và giành được những thắng lợi to lớn. Từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1968, Đảng bộ, quân và dân Khu VI đã phối hợp với toàn miền đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Chiến công của quân và dân Khu VI - Cát Tiên thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Trong đó, cộng đồng các dân tộc Khu VI đã đoàn kết, anh dũng, bất khuất, làm nên những chiến công vang dội, thể hiện sự chói sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với lòng yêu nước nồng nàn đã giúp quân và dân Khu VI vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Việc xây dựng, tôn tạo Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến Khu VI, Cát Tiên đã thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, vinh danh, phát huy những giá trị lịch sử to lớn của quân và dân Khu VI, đồng thời đây chính là nơi giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng truyền thống cách mạng cho các thế hệ con cháu mai sau. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Cát Tiên

Lâm Đồng 6290 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật