Di tích lịch sử

Việt Nam

Đình Làng Tường Phiêu

Đình Tường Phiêu (còn gọi là Đình Cả) nằm trên địa bàn xã Tích Giang, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, là một di tích kiến trúc còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa tiêu biểu về vật thể và phi vật thể. Hiện nay, đình Tường Phiêu thờ phụng 04 vị Thành hoàng làng, đó là: Ba vị đức Thánh Tản Viên và Quán Sơn Thành hoàng. Trên thực tế, ở ven vùng Ba Vì có 5 ngôi đền nổi tiếng thờ thần Tản Viên đó là đền Thượng, đền Trung (trên núi), đền Và (thị xã Sơn Tây), đền Hạ (xã Minh Quang) và đền Đá Đen (Tản Lĩnh). Trong các di tích lịch sử thờ Đức Thánh Tản thường có 3 bài vị hoặc 3 bức tượng, theo lời kể của nhân dân đó là Thánh Tản ở giữa, hai bên là hai em trai hay hai bộ tướng theo ông đánh giặc Thục (Đình Tường Phiêu là một trong những trường hợp như vậy). Đây là một ảnh hưởng giao thoa văn hóa, cả văn hóa Hán, phật giáo Ấn Độ cùng Đạo giáo bản địa đã tạo ra bộ ba Cao Sơn - Tản Viên - Quý Minh, chính từ khái niệm Ba Vì mà sinh ra bộ ba trên mà nay thường được thờ theo Tam vị Đức thánh Tản trong một số ngôi đình làng nói chung, đình Tường Phiêu nói riêng. Đình Tường Phiêu có bố cục mặt bằng tổng thể hình chữ “Nhất” được chia làm 03 gian 2 chái. Đứng ở sân nhìn vào, đình như một ngôi nhà sàn lớn, được cách điệu uyển chuyển, mềm mại bởi hệ thống mái và các đầu đao cong. Trên bờ nóc đắp nổi “Lưỡng long chầu nhật”. Đầu bờ nóc đắp nổi con kìm, bờ giải có từng cặp sấu (chất liệu bằng sành nung mang dấu ấn thời Lê Trung hưng đậm nét), nghê đối xứng nhau. Đình Tường Phiêu nằm trong hệ thống di tích tôn giáo tín ngưỡng và là công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị cao. Hiện nay, đình Tường Phiêu còn lưu giữ được nhiều di vật quý thuộc nhiều chất liệu và loại hình khác nhau, như: Di vật bằng gỗ: 03 kiệu rước phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII – XVIII; 03 bộ ngai thờ bài vị niên đại vào khoảng nửa đầu thề kỷ XVIII, 03 ba mâm ấu thế kỷ XIX. Di vật bằng giấy: 06 đạo sắc phong thời Nguyễn. Di vật bằng gốm: 03 bát hương cổ bằng gốm Thổ Hà có phong cách nghệ thuật vào khoảng thế kỷ XVIII - XIX. Ngoài ra, còn các di vật như: áo phù giá và bộ đài nến bằng đồng,… Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật đình Tường Phiêu, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018). Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 2119 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Chèm

Nằm ẩn mình bên dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, cách trung tâm Hà Nội về phía Tây khoảng 12km là một ngôi đình uy nghi cổ kính, có niên đại hơn 2.000 năm lịch sử. Đình Chèm thuộc làng Chèm, phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội - được coi là một trong số ít những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắn và công phu. Nghi môn ngoại là kiểu nghi môn trụ với bốn cột xây cao to, gần đỉnh trụ đắp hình lồng đèn, đỉnh trụ và thân trụ được trang trí tứ linh, tứ quý và đắp các câu đối chữ Hán ca ngợi Đức Thánh Lý Ông Trọng. Nghi môn nội (hay còn gọi là Tàu tượng) là một nếp nhà bốn mái, ba gian, hai chái, mái lợp ngói mũi hài, các góc uốn cong tạo thành những đầu đao đắp nổi hình đầu rồng. Nghi môn nội mở 3 cửa lớn có cánh gỗ. Đây là nơi đặt tượng ông quản tượng, voi chiến và ngựa chiến của Đức Thánh. Khu nhà bia, sân đình, tả hữu mạc, phương đình 8 mái và tòa đại bái, hậu cung tạo thành hình chữ công. Khu vực chính của đình Chèm gồm tòa tiền tế và tòa đại bái, hai tòa nhà này có kết cấu giống nhau và nối với nhau bằng hệ thống xà nách đỡ máng đồng. Mỗi dãy nhà gồm 5 gian, hai chái theo kiểu nhà 4 mái. Nội thất có 6 hàng chân cột gỗ đỡ mái, các cột đều được đặt trên chân tảng đá xanh. Trên các bộ vì ngắn, các bức cốn chạm hình rồng mây, rồng cuốn thủy, cá hóa rồng, tứ linh với những đường nét chạm mềm mại, trau chuốt, mang đậm phong cách nghệ thuật cuối thời Lê – thế kỷ thứ 18. Đây là nơi bài trí hương án và các đồ tế khí quan trọng của đình Chèm, đồng thời cũng là nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng hàng năm cũng như trong dịp lễ hội. Hậu cung đình xây liền với nhà đại bái bằng một nhà cầu nhỏ tại gian giữa, khu hậu cung gồm 3 dãy nhà nối liền nhau tạo thành kết cấu kiến trúc kiểu chữ “Công”. Nhà ngoài và nhà trong nằm song song với nhau bằng nhà ống muống ở gian giữa. Đây là nơi tôn nghiêm nhất tại đình Chèm, đặt long ngai và tượng thờ của Đức Ông, Đức Bà cao khoảng 3,2m, hai bên là tượng 6 người con của Đức Thánh, còn gọi là Lục vị vương. Trong thánh phả nước Việt, Lý Ông Trọng đứng hàng thứ ba sau Thánh Tản và Thánh Gióng. Đình làng Chèm có lẽ là ngôi đình duy nhất ở nước Nam ta quay hướng về phương bắc. Hình như đó là cách dân Chèm biểu lộ thành ý với bà công chúa sống xa xứ nhưng rất mực yêu chồng và luôn hướng về nơi quê cha đất tổ. Hiện đình Chèm còn lưu giữ được cuốn sách chữ Hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, 3 đạo sắc phong của các vua Nguyễn phong thần cho ngài Lý Ông Trọng, 4 tấm bia đá, trong đó có 1 tấm thời Lê Cảnh Hưng và 3 tấm thời Nguyễn, 10 tượng thờ, 8 bức hoành phi câu đối, 2 chuông đồng đúc thời Nguyễn. Đặc biệt là hệ thống máng đồng là di vật độc đáo, hiếm có ở các di tích khác, có niên đại thời Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Các công trình kiến trúc của đình Chèm được kết cấu bền chắc và bố trí hài hòa trong một tổng thể không gian rộng lớn. Những nếp nhà được làm đăng đối theo trục hoàng đạo Đông Bắc – Tây Nam. Xung quanh những công trình kiến trúc là những cây cổ thụ cành lá sum suê, góp phần tôn thêm vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm cho ngôi đình thiêng hơn 2.000 năm tuổi. Để tri ân công đức của Đức Thánh, hàng năm cứ vào dịp rằm tháng 5 âm lịch nhân dân ba làng gồm: làng Chèm (nay là phường Thụy Phương), làng Hoàng và làng Mạc (phường Liên Mạc) cùng nhau tổ chức lễ hội truyền thống, có sự tham gia của nhân dân xã Đa Lộc (Ân Thi, Hưng Yên), làng La Tinh (Đông La, Hoài Đức). Nhắc đến hội Chèm, ca dao có câu: “Thứ nhất là hội Cổ Loa Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm” Lễ hội đình Chèm diễn ra trong 3 ngày 14, 15, 16 tháng 5 âm lịch với các hoạt động như: rước nước từ sông Hồng về Đình Chèm; rước văn từ chùa Chèm về đình Chèm; lễ dâng hương hoa; Ba dân nhập tế. Làng Chèm đang đổi thay từng ngày trong sự đi lên của nền kinh tế đất nước nhưng vẫn lưu giữ được những nét văn hóa cũ, nếp sinh hoạt xưa của một làng Việt cổ và ngôi đền cổ kính trong một không gian hài hòa, gợi niềm thương nhớ cho những ai đã từng ghé thăm. Chè kho là sản phẩm đặc biệt của lễ hội Đình Chèm bởi nó gắn với lễ hội chay chỉ có chè kho, xôi trắng, hương hoa, quả được người dân trong làng cung kính dâng lên lễ thánh. Điều này thể hiện được sự tinh khiết thanh tao và khát vọng hòa bình của người dân xã Thụy Phương nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Với những giá trị tiêu biểu, đình Chèm đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1990 và được Thủ tướng Chính Phủ quyết định công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt năm 2017. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Hà Nội 2027 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Thầy

Trong lịch sử hình thành, chùa Thầy gắn liền với tên tuổi và cuộc đời của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072 - 1117) - vị tổ sư thứ 24 của dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, với nhiều tên gọi, như “Hương Hải Am”, “Bồ Đề Viện”, “Phật Tích”... Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách, thuộc các xã Sài Sơn, xã Phượng Cách và thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Đây là một quần thể di tích kết hợp với cảnh quan của những ngọn núi thấp ở giữa vùng đồng bằng trù phú, tạo nên một diện mạo linh thiêng mà kỳ vĩ, gồm 03 cụm điểm: Khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách; Quần thể di tích chùa Thầy; các di tích trên núi động Hoàng Xá. Theo thuyết phong thuỷ, núi Sài được xem như là con rồng lẻ đàn (quái long), xung quanh có 18 ngọn núi nhỏ - “Thập bát tú sơn” chầu về, án ngữ cho tổ sơn Tản Viên. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại 11 ngọn núi, là: Sài Sơn, Long Đẩu, Hoa Sơn, Hương Sơn (Hổ Sơn), Phượng Hoàng, Kỳ Lân, Sơn Tượng, Âm Giang, Ông Minh, Đồng Hè và Hoàng Xá. Trong số đó, nổi tiếng nhất là núi Sài Sơn (núi Thầy), hình vòng cung cao khoảng 100m từ Sài Sơn kéo xuống tận Hoàng Xá với bán kính trên 3km. Trên núi có nhiều loại cây cổ thụ trăm năm tuổi, nhiều loại thuốc quý được thiên nhiên ban tặng. Núi Sài với nhiều hang động nổi tiếng như hang Cắc Cớ, hang Thánh Hoá, hang Gió, trên đỉnh lại có Bàn cờ tiên, Chợ Trời. Đặc biệt, Hang Cắc Cớ ở lưng chừng núi, rất sâu, cửa hang nhỏ hẹp, tối và trơn, muốn vào hang phải có đèn đuốc. Trong hang có vòm rộng, hiện còn lưu giữ một bể xương người - tương truyền là nơi tuẫn tiết của nghĩa quân Lữ Gia thời Triệu chống lại nhà Tây Hán thất bại. Đây là tổ hợp công trình kiến trúc nằm ở chân, sườn núi Sài Sơn và một số ngọn núi nhỏ xung quanh, gồm: chùa Thầy (chùa Cả, Thiên Phúc Tự), chùa Bối Am, chùa Cao, đền Thượng, chùa Long Đẩu, chùa Sài Khê, đền Quán Thánh. Quần thể di tích chùa Thầy còn lưu giữ được hệ thống các di vật, cổ vật rất phong phú đa dạng, thuộc nhiều chủng loại, chất liệu, như: đá, gỗ, giấy, hệ thống tượng thờ, nhang án, hoành phi câu đối,… tiêu biểu như bộ tượng Di đà tam tôn (đã được công nhận là Bảo vật quốc gia), tượng thánh Từ ở ba kiếp, tượng Lữ Gia, Tam thế Phật, Bệ đá hoa sen Phật có sư tử đội thời Lý, bệ hoa sen hai tầng (Bách hoa đài) thời Trần, khám thờ thời Mạc … Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách (huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014./. Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 2117 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương (Sùng Phúc tự, chùa Tây) tọa lạc trên núi Câu Lậu, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Theo một số nhà nghiên cứu, năm Giáp Dần (1554) đời Mạc Phúc Nguyên (1547 - 1561) niên hiệu Quang Bảo năm thứ nhất, chùa Tây Phương đã được làm quy mô như ngày nay. Năm Canh Tý (1660), chúa Trịnh Tạc (1657 - 1682) cho tu sửa chùa và làm Tam quan. Vào thời vua Lê Huy Tông, Uy vương Trịnh Giang cũng tu sửa chùa và tạc thêm tượng Phật tại chùa. Chùa quay hướng Đông, trông ra gò Đồng Sộng và gò Kim Quy (núi Nủ Rùa), hướng Tây có dòng Tích Giang, hướng Nam có núi Con Voi, phía Đông Nam có núi Lý Ngư, phía Tây Bắc có đỉnh Ba Vì, bao gồm các hạng mục: Tam quan hạ, Tam quan Chùa Tây Phương là di sản văn hóa mang giá trị đặc biệt thể hiện qua nghệ thuật kiến trúc đỉnh cao (về tỷ lệ hình học, mỹ thuật, khoa học), chạm khắc, tạc tượng... từ đầu bẩy, các bức cốn, xà nách, ván long... đều chạm trổ đề tài trang trí truyền thống, như: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo. Hệ thống tượng Phật là điểm đặc sắc nhất, có thể coi đây như là một Bảo tàng tượng Phật của Việt Nam. Các pho tượng Phật được làm bằng gỗ mít, được tạo tác công phu, tinh xảo, giá trị nghệ thuật điêu khắc vào bậc nhất nước ta. Phần lớn các tượng này có niên đại khoảng cuối thế kỷ XVIII, một số tượng khác được tạc vào giữa XIX. Trong đó, tiêu biểu là các pho tượng Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương... hội tụ đầy đủ và tạo ấn tượng thẩm mỹ sâu đậm về nền điêu khắc cổ truyền. Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./. Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 2219 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Sóc

Đền Sóc phụng thờ người anh hùng văn hóa làng Gióng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước từ buổi bình minh trong lịch sử dân tộc. Theo truyền thuyết, Vua Hùng đã cho lập đền thờ Thánh Gióng ngay sau khi dẹp xong giặc. Qua các nguồn tư liệu, đặc biệt là văn bia niên hiệu Dương Đức (1672) đã đoán định đền được dựng khoảng thời Lê trước năm 1672. Trải qua các thời kỳ lịch sử, đền Sóc luôn được chính quyền và nhân dân gìn giữ, tu bổ, tôn tạo. Hiện nay, Khu di tích Đền Sóc (Đền Quốc tế) thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, bao các hạng mục: Nghi môn, đền Hạ, đền Thượng, chùa Đại Bi, đền Mẫu, nhà khách, khu phụ, chùa Non. Đền Sóc hiện còn lưu giữ được 145 hiện vật có giá trị, niên đại trải dài từ thời Lê, tập trung vào triều Nguyễn, tiêu biểu như: hoành phi, câu đối, bia đá, lư hương, tượng thờ, hương án, ngai thờ, bát bửu, chân đèn, ngựa gỗ, chuông đồng... Đặc biệt là tấm bia bát giác thời Lê dựng trên núi, phía sau đền Thượng, là tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao, cung cấp nhiều thông tin về Thánh Gióng và phong tục tập quán, địa phương qua các thời kỳ. Hội đền Sóc là sự tồn tại của nhiều lớp văn hoá - tín ngưỡng được gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay. Đó là tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên - dấu chân ông Đổng - vị thần sấm sét, mưa dông, tín ngưỡng thờ thần mặt trời, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cây đá - một tín ngưỡng cổ xưa của người Việt... Hội đền Sóc được tổ chức từ ngày mùng 6 - 7 tháng Giêng (kỷ niệm ngày hoá của Thánh Gióng) ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa đa diện, độc đáo, tiêu biểu của dân tộc. Năm 2010, UNESCO đã vinh danh Hội Gióng là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./ Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 2152 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Tây Đằng

Di tích đình Tây Đằng nằm trên địa bàn thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Đình Tây Đằng thờ Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, là vị thần đứng đầu hàng Tứ bất tử trong thần điện Việt, là anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc, anh hùng trị thủy được nhân dân tôn là Nam Thiên Thánh Tổ, được các triều vua sắc phong là Thượng đẳng tối linh thần. Đình Tây Đằng, một di tích tiêu biểu vào bậc nhất trong các ngôi đình cổ nổi danh toàn quốc với câu ca “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Đình nằm trên một khu đất đẹp, cao ráo giữa trung tâm của làng Tây Đằng, tựa lưng phía sau là khu cư trú của thôn Đông, phía trước hướng về núi Ba Vì (Tản Viên) hùng vĩ. Đình Tây Đằng bao gồm các hạng mục chính: Cổng đình, hồ bán nguyệt, cổng nghi môn, tả hữu mạc, tòa đại đình và giếng đình. Các hạng mục kiến trúc này được hòa quyện với nhau trong khuôn viên di tích đã có tường bao xung quanh, với các nếp nhà cao thấp, mái đao cong cổ kính xen nhau tạo nên. Đình Tây Đằng với kết cấu mặt bằng theo hình chữ nhất, phía trước nhìn thẳng ra núi Tản Viên. Đình quay hướng Nam. Đình Tây Đằng có độ lớn vừa phải, mang hình chữ nhất, ba gian hai chái lớn, lợp bằng loại ngói dạng ngói mũi hài. Qua khảo sát tổng thể khung vì kiến trúc đình Tây Đằng được làm bằng loại gỗ mít. Chất liệu này có lẽ ảnh hưởng từ chùa, để như muốn nhắc tới một miền đất tâm linh thánh thiện, trong sáng, giác ngộ… Về kết cấu mặt bằng, tòa đại đình được kết cấu mặt bằng với 6 hàng chân cột gỗ, tổng số 48 cột lớn nhỏ đỡ khung vì kiến trúc. Tương ứng với các gian là 4 bộ vì chính đỡ mái được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”. Hậu cung là Gian thờ gác lửng sau hai cột cái, ở gian chính giữa. Di tích đình Tây Đằng được Bộ VH,TT&DL xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383/QĐ – UBND ngày 29/03/2013. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ba Vì , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 2189 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Phù Đổng

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Phù Đổng (Khu di tích lịch sử đền Phù Đổng, Khu di tích lịch sử đền Gióng) nằm trên địa bàn xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt năm 2013. Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Phù Đổng gồm 8 điểm di tích thành phần, phân bố trên địa bàn 3 thôn của xã Phù Đổng, với tổng diện tích 60.343,7m2. 1. Đền Thượng (đền Phù Đổng Thiên Vương), là ngôi đền chính, quay hướng Nam, trông ra đê sông Đuống. Đền gồm các hạnh mục: thủy đình, cổng ngũ môn (năm cửa), phương đình, tiền đường, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, nhà giám, nhà ba gian, nhà khách, nhà hiệu. Thủy đình nằm ở giữa ao đình, phía trước đền, có mặt bằng hình vuông, với hai tầng, 8 mái, lợp ngói mũi hài. Các bộ vì có kết cấu chồng rường giá chiêng, hoành mái được phân khoảng theo kiểu thượng tam, hạ tam. Hệ mái tì lực trên 4 hàng chân cột. Cổng ngũ môn (năm cửa) với 3 cửa chính và 2 cửa phụ, mang dáng dấp đồ sộ như một cổng thành, được xây bằng gạch, các khuôn cửa đều có cấu tạo dạng vòm cuốn, cánh cửa kiểu thượng song, hạ bản. Trên cổng là tòa nhà kiểu 2 tầng 8 mái. Phương đình là tòa nhà 2 tầng 8 mái, lợp ngói mũi hài, có mặt bằng nền hình vuông, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hoa văn hình học, 8 góc đao gắn hình lá lật. Hệ khung mái được đỡ bởi 4 hàng cột, kết cấu vì dạng thượng rường, hạ cốn. Tiền tế gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái kiểu chồng diêm hai tầng, hệ mái tì lực trên 6 bộ vì gỗ, trong đó, 4 bộ vì giữa được kết cấu theo dạng thượng đinh, hạ kẻ, 2 vì hồi kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Trung tế gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc, bờ dải đắp kiểu bờ đinh, hai đầu hồi xây tường bao, mặt trước và mặt sau để trống, bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ, tì lực trên 6 hàng chân cột, 4 vì giữa kiểu thượng đinh, hạ kẻ, 2 bộ vì bên kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Hậu cung có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Công, gồm ngoại cung, ống muống và hậu cung. Tả mạc, hữu mạc là 2 dãy nhà, mỗi bên 9 gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung mỗi tòa gồm 10 bộ vì kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Nhà khách có mặt bằng hình chữ Nhất, tường hồi bít đốc, hệ thống cửa bức bàn, hai đầu bờ nóc đắp rồng lá cách điệu. Bộ khung gồm 4 bộ vì, được kết cấu theo kiểu chồng rường giá chiêng, mái phân khoảng hoành kiểu thượng tam, hạ ngũ. Hệ khung mái tì lực trên 3 hàng chân cột. Nhà giám có mặt bằng dạng chữ U, gồm cung chính và 2 dãy nhà ngang hai bên. Cung chính gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, 6 bộ vì gỗ được kết cấu theo kiểu thượng giá chiêng, hạ kẻ ngồi, bẩy hiên, tì lực trên 6 hàng chân cột. 2. Đền Hạ, còn gọi là đền Mẫu, quay hướng Tây, tọa lạc ở vị trí ngoài đê sông Đuống, bao gồm các hạng mục: nghi môn, tả - hữu mạc và kiến trúc chính dạng chữ Tam, gồm tiền tế, trung tế và hậu cung. Nghi môn gồm 3 cửa dạng vòm cuốn. Trên cửa chính (giữa) xây tòa nhà 8 mái. Tả - hữu mạc, mỗi bên 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung mỗi tòa gồm 6 bộ vì gỗ, được kết cấu kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, tì lực trên 6 hàng chân cột. Tiền tế gồm 5 gian, 2 chái, bốn mái với 4 đao cong hình lá lật, các bờ guột được gắn những đầu kìm cách điệu, hai đốc mái đắp hai đấu hình chữ Nhật, bên cạnh gắn các đầu rồng chầu vào bờ nóc, mái lợp ngói mũi hài. Trung tế gồm 5 gian, 2 chái, có hình thức kết cấu kiến trúc giống tòa tiền tế. Hậu cung gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ, được kết cấu theo kiểu thượng chồng rường, hạ kẻ, tì lực trên 6 hàng chân cột, hoành mái được phân khoảng kiểu thượng tam, hạ tứ. 3. Miếu Ban, nằm cách đền Thượng khoảng 200m, ở phía bên trong đê sông Đuống, gồm nghi môn, tả - hữu vu, sân, kiến trúc chính dạng chữ Đinh. Nghi môn gồm 2 tầng, với 4 mái kiểu chồng diêm, lợp ngói mũi hài. Chính giữa nóc mái đắp hình mặt trời, bờ nóc, bờ dải trang trí hình hoa chanh, 4 góc đao đều gắn đầu rồng cách điệu. Tầng dưới có tường hồi bít đốc dạng tay ngai, mái lợp ngói ta. Nhà giải vũ mỗi bên 2 gian, với 3 bộ vì, được kết cấu kiểu thượng giá chiêng, hạ bẩy, hoành mái được phân khoảng kiểu thượng nhị, hạ tam. Tòa tiền tế gồm 7 gian, tường hồi bít đốc dạng tay ngai, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp trang trí hình hoa chanh, chính giữa đắp bức cuốn thư có hình hổ phù, hai đầu hồi đắp hai đấu hình chữ Nhật, ở vị trí đầu kìm gắn hai đầu rồng quay về phía giữa bờ nóc. Bộ khung gồm 8 bộ vì, được kết cấu kiểu thượng rường, hạ kẻ suốt hoặc thượng rường, hạ cốn, tì lực trên trên 8 hàng cột. Miếu là một nếp nhà 1 gian, 2 chái, ở phía sau tiền tế, hợp với tiền tế thành một kiến trúc có mặt bằng hình chữ Đinh. Toà này được xây theo kiểu tường hồi bít đốc, hệ khung có 2 bộ vì, được kết cấu kết dạng thượng ván mê, hạ cốn, tì lực trên 2 hàng chân cột. 4. Đình Hạ mã, nằm phía trái đền Thượng, có diện tích khoảng 200m2. Hiện nay, kiến trúc này chỉ còn phần móng, đình đã bị huỷ hoại do không được tu sửa. 5. Cố viên, còn gọi là vườn rau, hay vườn cà, nằm trên thềm đất bãi sông, cách đền Hạ khoảng 500m. Tương truyền, mẹ Gióng ra vườn này hái rau, rồi ướm vào vết chân người khổng lồ, về nhà mang thai, sinh ra Gióng. Tại đây có 1 ngôi miếu nhỏ, với kết cấu 2 tầng, 8 mái, 4 mặt để thông. Bên cạnh có hòn đá hình thù đặc biệt, với nhiều vết lồi, lõm, được coi là vết chân người khổng lồ và một tấm bia mang dòng chữ “Đổng Thiên Vương Thánh Mẫu Cố trạch”. 6. Giá ngự, mới được phục dựng vào đầu thế kỷ XX, nằm ở phía bên kia đê, thuộc khoảng giữa đền Thượng và đền Hạ. Cổng vào Giá ngự có 2 trụ biểu cao khoảng 6m, đỉnh trụ đắp tượng nghê, phía dưới đắp đấu hình vuông, các ô lồng đèn đắp tứ linh, tứ quý, thân trụ bổ khung đắp câu đối. 7. Khu đánh cờ Đống đàm, là một bãi đất rộng, nằm cách đền Thượng khoảng 3 km, thuộc thôn Phù Đổng. Đây là nơi diễn ra trận đánh giặc Ân lần thứ nhất của Gióng trong hội. 8. Bãi đánh cờ - Soi bia, thuộc địa phận thôn Phù Đổng, là nơi diễn ra trận đánh giặc Ân lần thứ hai của Gióng trong hội. Nguồn Cục di sản văn hóa.

Hà Nội 2164 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Hai Bà Trưng

Đền Hai Bà Trưng còn gọi là đền Hạ Lôi, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền thờ hai vị liệt nữ - anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị - những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của nhà Đông Hán vào năm 40 - 43 (sau Công nguyên), giành lại nền độc lập, tự chủ dân tộc. Nằm trên một khu đất cao, rộng, nhìn ra đê sông Hồng, với diện tích 129.824.0m2, đền gồm các hạng mục: cổng đền, nhà khách, nghi môn ngoại, nghi môn nội, gác trống, gác chuông, nhà tả - hữu mạc, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ thân phụ - thân mẫu Hai Bà, đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách, đền thờ các nữ tướng triều Hai Bà Trưng, đền thờ các nam tướng triều Hai Bà Trưng, nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh, hồ bán nguyệt, hồ mắt voi, suối vòi voi, hồ tắm voi, thành cổ Mê Linh... - Cổng đền: được xây 2 tầng, tầng dưới tạo 3 cửa vòm cuốn, tầng trên xây kiểu chồng diêm, với 2 tầng 8 mái. Bờ nóc đắp hình đôi rồng chầu mặt trời, phần cổ diêm trang trí hình hoa 4 cánh, các góc đao đắp hình lá hỏa, góc cột đắp hình hoa cúc dây, thân cột hình hoa lá. - Nhà khách: gồm 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. - Nghi môn ngoại: xây kiểu cột đồng trụ hay còn gọi là tứ trụ. Đỉnh trụ trang trí tứ phượng theo kiểu lá lật, các ô lồng đèn phía dưới trang trí tứ linh. Hệ thống tứ trụ phân cách thành một cổng chính và hai cổng phụ. - Nghi môn nội: gồm một gian, hai dĩ, với bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hai đầu rồng, phần khúc nguỷnh đắp hai con nghê gắn sứ trong tư thế chầu vào nhau, bốn góc đao uốn cong, bộ vì đỡ mái làm kiểu “thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền”. - Gác chuông, gác trống: gác trống - gác chiêng đều được làm theo kiểu bốn mái uốn cong, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hình hổ phù, tầng trên mở bốn cánh cửa quay về bốn hướng... - Đền thờ Hai Bà Trưng: + Tòa tiền tế gồm 7 gian, 2 dĩ, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, hai đầu đắp hình con đấu, đầu hai bờ dải đắp hình phượng vũ. Phía trước tiền tế có đôi voi đá trong tư thế quỳ chầu vào nhau. Hai cổng nhỏ với mái làm theo kiểu “chồng diêm”, mái uốn cong. Nối hai cổng nhỏ là hai bức “cánh phong”, phía trước có cột trụ biểu, đỉnh trụ hình trái giành, các ô lồng đèn đắp nổi tứ linh. + Nhà trung tế gồm 5 gian, 2 dĩ, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp hình hoa chanh, chính giữa đắp hổ phù, hai mái kiểu chồng diêm… phía trước trung tế có lư hương đá... + Nối với gian giữa trung tế là hậu cung - một nếp nhà ba gian, một dĩ, được xây dọc, hợp với trung tế tạo thành một kiến trúc tổng thể dạng chữ Đinh. Bộ khung đỡ mái hậu cung gồm bốn bộ vì mang kết cấu “thượng giá chiêng hạ chồng rường, và “thượng giá chiêng hạ cốn”. Các hàng cột có đường kính 35cm, trên cốn nách chạm hình chữ Thọ, hoa lá. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm nhà 5 gian, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, bờ dải kiểu bờ đinh. Hậu cung gồm 1 gian, 2 dĩ. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách: tọa lạc về phía bên trái đền thờ Hai Bà Trưng. Đền quay hướng Tây Nam, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. - Đền thờ các Nữ tướng thời Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ nhất, gồm 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ để lấy ánh sáng cho di tích. Hệ khung đỡ mái gồm 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí ngai và bài vị, phía trước bài trí hương án. - Đền thờ các tướng Nam thời Hai Bà Trưng: quay hướng Đông Bắc, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Nhất, gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, với 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí khám thờ và bài vị. - Nhà tả/ hữu mạc: là nếp nhà 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hệ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng chồng rường, trung kẻ, hạ bẩy”. Phía trước hiên dãy nhà bên phải đền bài trí 8 con voi, ngựa, sư tử, bên trong trưng bày một số di vật khai quật tại thành cổ Mê Linh. - Thành cổ Mê Linh: hiện vẫn còn dấu vết thành cổ đắp đất, hình “con rắn uốn mình”, dài 1.750m, với chỗ rộng nhất là 500m, chỗ hẹp nhất là 200m, đắp bằng đất luyện, dày khoảng 1 ngũ (khoảng 2m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Bao ngoài bờ thành là quách dày 2 ngũ (khoảng 4m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Khoảng cách giữa thành và quách là đường “thông cù” rộng 2 ngũ (khoảng 4m). Do có con đường “thông cù” này mà thành có tên là “thành Ống”. Vòng ngoài cùng là hào cắm chông tre. Tương truyền, xưa kia trong thành có cung điện của Trưng Vương, ngoài thành có các trại quân bộ, quân thủy. Hiện nay còn di tích các đồn quân của nữ tướng Lự Nương và nam tướng Bạch Trạch ở phía trước đền Hạ Lôi, thuộc xã Tráng Việt. Đây chính là đất Phấn Lộ, huyện Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng cho đắp đô thành. Thành cổ đã được khai quật khảo cổ và thu được nhiều hiện vật có giá trị. - Nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh: được xây kiểu bốn mái, các góc mái uốn cong, chính giữa gắn tấm bia lưu niệm có nội dung: ‘‘Nơi đây có cây lụa già thân rỗng là hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1943 - 1945, đồng chí Trường Chinh đã lấy đền thờ Hai Bà Trưng là một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền Thủ đô Hà Nội ngày 19/8/1945’’. - Mắt voi, vòi voi, hồ tắm voi, hồ bán nguyệt: Tương truyền khu đền này được xây trên mảnh đất có thế (hình) đầu con voi nên có các tên gọi trên. Khu vực này hiện nay được kè đá, gạch, xung quanh trang trí hoa sen bằng đá xanh tạo cảnh quan cho khu di tích. Đền Hai Bà Trưng còn là nơi lưu giữ nhiều di vật quý, đa dạng, phong phú về cả chủng loại và chất liệu như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy,… trong đó di vật gỗ chiếm đa số. Các di vật có niên đại tập trung vào triều Nguyễn như hoành phi, hương án, đại tự, câu đối, khám, kiệu, tượng thờ…được chạm khắc công phu, tinh xảo, với các đề tài trang trí: rồng mây, hoa lá, văn triện, hổ phù… Đây là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện bàn tay tài hoa, khéo léo và tinh tế của ông cha ta trong nghệ thuật tạo tác, phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội và những ước vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn. Di tích đã được Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ -TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013). Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 2440 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Hát Môn (thờ Hai Bà Trưng)

Đền Hát Môn, còn gọi là đền Quốc tế, đền Hai Bà Trưng, thuộc địa bàn xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Theo một số tài liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ sau khi hội tại thành Phong Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tương truyền, đền Hát Môn được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt. Đền quay hướng Tây Nam gồm các công trình kiến trúc chính: quán Tiên, miếu Tạm ngự, nghi môn, nhà phương đình, đàn Thề, tam quan, tiền tế, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, gò Giấu ấn, nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định, nhà khách, khu phụ… Quán Tiên: là một kiến trúc nhỏ, xây bằng gạch, cửa mở về hướng đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn mặt đường 45cm, tạo ba bậc lên nền quán. Theo cuốn thần tích của làng chép lại, thì nơi đây vốn là quán hàng bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước khi ra trận dẹp giặc. Ngôi quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ công ơn đối với bà hàng bánh trôi. Miếu Tạm ngự: nằm phía trước bên phải đền chính, có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế ba gian, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu kiểu vì “giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”. Toà hậu cung ba gian, xây nối liền với tiền tế, hệ vì đỡ mái có kết cấu tương tự nhà tiền tế. Phía trước mở hệ thống cửa kiểu bức bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà. Khi mùa nước lũ hàng năm, khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ và toàn bộ đồ thờ tự của đền về đền Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh hoàn cung. Nghi môn ngoại: có niên đại khởi dựng vào thời Nguyễn, được làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ phượng, lân. Phần lồng đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân trụ có câu đối chữ Hán. Từ nghi môn theo triền đê xuống là khu đền chính, bên phải có hồ nước, giữa hồ có nhà thủy đình (phương đình) mới xây dựng gần đây. Bên trái đường trên mặt đê là nhà tưởng niệm nữ tướng - nữ anh hùng Nguyễn Thị Định. Đàn Thề: được xây dựng mới ở phía trước cổng tam quan, cột đá thề được tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao hơn mặt sân 65cm, trổ năm bậc lên, mặt hướng vào đền khắc nội dung lời thề của Hai Bà Trưng. Bao quanh đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi và ngựa bằng đá. Nghi môn: gồm ba gian kiểu chồng diêm, hai tầng mái. Ba cửa vào đền làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát. Nhà bia: hai nhà bia được xây ở vị trí phía ngoài dãy nhà tả/ hữu mạc, trên nền cao hơn mặt sân 30cm, kiểu phương đình, mái lợp ngói ta, bốn đầu đao tạo cong vút. Tả/ hữu mạc: mỗi dãy năm gian chạy dọc theo sân đền, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”, được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột. Nhà đại bái: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng rường, cốn mê, bẩy hiên”, hoành mái phân “thượng tam - hạ tứ”, mái lợp ngói ri, nền lát gạch Bát. Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, ván gió dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ linh. Đây là sản phẩm nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa treo hoành phi, các cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà. Tiền tế: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, nền nhà cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa, các bộ vì kết cấu“thượng rường giá chiêng, hạ bẩy hiên”. Hậu cung: gồm ba gian, xây trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Phần mái của tòa này được nối với tòa trung đường qua phần mái của nhà cầu. Bộ khung gỗ đỡ mái gồm bốn bộ vì kèo dạng “chồng rường”. Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu là phượng. Gian giữa cung cấm được tạo một khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là nơi thờ Hai Bà. Nhà khách: gồm năm gian, kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên” cột trốn. Gò Giấu Ấn: ở phía sau hậu cung đền. Tương truyền, đây là dấu tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng ở cửa sông Hát. Hiện nay, gò Giấu Ấn được bó vỉa, xây tường gạch bao quanh. Đền Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hoá, lịch sử, gồm: 293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú chất liệu, như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy, kim loại... có niên đại trải dài từ thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay. Hội đền Hát Môn được tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng 3 (Âm lịch), với các nghi lễ và trò diễn dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi dâng Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này. Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Đền Hát Môn được chọn làm nơi sinh hoạt, luyện tập của dân quân du kích địa phương. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh vùng sông Hát góp phần làm giàu thêm nội dung và tôn cao giá trị của đền thờ Hai Bà Trưng. Với những giá trị đặc biệt, di tích Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013). Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 2545 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Ngọc Sơn

Đền Ngọc Sơn là một ngôi đền thờ nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4. Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công đánh thắng quân Nguyên thế kỷ 13. Khởi đầu, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền được dùng để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Khánh Thuỵ và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, khi họ Trịnh bị đánh đổ, cung Khánh Thuỵ bị Lê Chiêu Thống cho người phá hủy một phần. Ngày nay sau nhiều năm lịch sử diện tích Hồ Hoàn Kiếm bị đô thị hoá thu nhỏ lại gấp nhiều lần. Chỉ còn lại chứng tích cũ như Phố Cầu Gỗ khi xưa là có một cây Cầu Gỗ nằm trên con Phố Cầu Gỗ ngày nay để người dân đi lại. Cung Khánh Thụy sau khi bị đổ nát một phần nhân dân trong Làng Tả Khánh lại cùng nhau dựng lên thờ tự lại trên nền đất lịch sử đó và có tên mới là Đền Khánh Thuỵ cho đến ngày nay sâu trong ngõ Hàng Hành thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Trong Đền Khánh Thuỵ vẫn còn lưu giữ lại một bia đá có các thông tin kết nối với di tích Ngọc Sơn khi xưa trên nền đất cũ. Cung Khánh Thuỵ và đền Khánh Thuỵ ngày nay đều thuộc quần thể di tích Ngọc Sơn lịch sử do vậy mà vị trí Đền Khánh Thuỵ luôn quay cửa Cung về phía Đền Ngọc Sơn còn lưng thì quay ra phố Hàng Hành nên nhiều người đã không được biết đến và chưa có phương án bảo tồn cùng quần thể Ngọc Sơn. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân một phần nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Bài ký "Đền Ngọc Sơn đế quân" được soạn năm 1843 vào lúc nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn có viết: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...". Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Theo bài ký "Sửa lại miếu Văn Xương", thì "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật..." Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội

Hà Nội 2599 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa