Di tích lịch sử

Việt Nam

Di tích Nhà hội Bình Trước

Di tích nhà hội Bình Trước thuộc xã Bình Trước, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Đây là một công trình kiến trúc đặc biệt của hương chức hội tề làng xã trước năm 1945. Nhà Hội được xây dựng vào khoảng năm 1936 dưới sự chủ trương của tỉnh trưởng Biên Hòa là Bolen. Nhà hội Bình Trước đã trở thành nơi họp và làm việc của hương chức hội tề địa phương. Có vị trí gần trung tâm thành phố, Nhà hội Bình Trước thu hút sự chú ý với kiến trúc dân gian uyển chuyển. Xây dựng bởi nghệ nhân về gốm và xây dựng của Biên Hòa, di tích này nổi bật với các tác phẩm gốm điêu khắc và kiến trúc gỗ tinh xảo, phản ánh nét đẹp của nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Mặc dù không phải là đình chùa, nhưng Nhà hội Bình Trước vẫn thể hiện nét trang nghiêm và độc đáo của kiến trúc đình làng, kết hợp nhiều nét đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Với diện tích 187,50m2, kiến trúc của nhà hội có mái ngói âm dương, trang trí gỗ và các bức phù điêu gốm tinh xảo. Đặc biệt hơn, Nhà hội Bình Trước còn ghi dấu sự kiện quan trọng trong lịch sử Biên Hòa. Vào ngày 23-9-1945, Hội nghị cán bộ tỉnh Biên Hòa đã quyết định thành lập Tỉnh ủy đầu tiên sau khi giành được chính quyền vào tháng Tám. Đây là một trong những sự kiện quan trọng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Di tích nhà hội Bình Trước đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào ngày 30/12/1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 2081 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Đại Giác( Đại Giác cổ tự)

Chùa Đại Giác còn gọi là Đại Giác cổ tự, chùa Phật lớn hay chùa Tượng; xưa thuộc thôn Bình Hoành, xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên; nay là khu phố Nhị Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chùa Đại Giác có diện tích khoảng 3.000 m2 với hai cổng xây bằng gạch ra vào, xung quanh có tường rào bao bọc. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa cất theo lối chữ tam (三) với ba dãy nhà ngang nối liền nhau. Mặt tiền chùa quay theo hướng Tây Bắc nhìn ra sông Đồng Nai. Giữa sân trước chùa là một cây bồ đề lớn, do Hòa thượng Đinh Tông trồng vào ngày rằm tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) và pho tượng Phật Quan âm Nam Hải đứng trên tòa sen. Bên tả và phía sau là khu vườn rộng trồng cây trái, bên hữu là khu bảo tháp với nhiều mộ tháp của các vị trụ trì viên tịch. Tuy bên ngoài, mái hiên chùa thấp và có lối kiến trúc hiện đại, nhưng bên trong chùa, vẫn còn theo kiểu mẫu của các chùa xưa ở vùng Đồng Nai, với các cột tròn và cao vút, tạo không gian thoáng đãng. Chùa gồm chánh điện, nhà khách, phòng chư tăng, trai đường và nhà bếp. Chánh điện là căn nhà ba gian rộng lớn, dùng để thờ. Gian giữa: ở trên cao là đức tượng Phật A-di-đà bằng gỗ cao 2,25 m, phía dưới là tượng Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật Di-lặc. Phía gần cửa ra vào là giàn đèn Phật Dược Sư gồm 49 cây đèn dầu nhỏ với 49 tượng Phật bằng gỗ nhỏ, chân giàn đèn chạm trổ rất mỹ thuật. Gian bên trái là khánh thờ tổ sư Bồ-đề-đạt-ma. Gian bên phải là khánh thờ Quan thánh đế quân. Hai bên vách, mỗi bên thờ năm vị Diêm vương và hai Phán quan. Phía sau chánh điện là bàn thờ các tổ sư từng hoằng hóa ở chùa, gồm nhiều long vị của các Thiền sư phái Lâm Tế, trong đó có long vị của chư tổ xưa nhất các là Thiền sư: Thành Đẳng (phái lâm tế đời 34), Phật Ý-Linh Nhạc, Giác Liễu-Thiệt Truyền (đời 35), Tổ Ấn-Mật Hoằng (đời 36)... Nối liền với chánh điện là nhà khách, có thờ phật Chuẩn Đề, Linh Sơn thánh mẫu... Chùa Đại Giác cùng với chùa Bửu Phong và chùa Long Thiền là ba công trình kiến trúc tôn giáo Việt, được khởi dựng sớm nhất ở Đồng Nai và là chứng tích cho bước đường Nam tiến ở nửa đầu thế kỷ 17 của ba nhà sư thuộc dòng Lâm Tế ở Đàng Trong. Ngoài giá trị này, ở chùa Đại Giác còn có các tượng Phật, hoành phi, liễn đối, phù điêu...mang nhiều đề tài phong phú, được chạm khắc công phu, sơn son thiếp vàng. Tất cả đã thể hiện tài năng nhân chạm khắc của người tạo tác và phản ánh được ít nhiều nền mỹ thuật truyền thống vùng Đông Nam Bộ. Với những giá trị kể trên, chùa Đại Giác đã được xếp hạng là Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 993/Quyết Định, ký ngày 28 tháng 9 năm 1990. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 2063 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Quảng Trường Sông Phố

Di tích Quảng trường Sông Phố được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 30 tháng 12 năm 1991. Quảng trường Sông Phố (còn gọi là công trường Sông Phố) là khu vực giao lộ của hai tuyến đường Cách Mạng Tháng Tám và đường 30 tháng 4. Người dân quen gọi Quảng trường Sông Phố với cái tên thân thương là Bùng binh trung tâm vì nó tọa lạc gần các công sở của tỉnh và từ đây có những ngã đường tỏa đến các địa điểm trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Sau khi đánh chiếm và bình định Biên Hòa vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng nhiều công sở trên vùng đất này để phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Quảng trường Sông Phố được xây dựng cùng với kiến trúc của Tòa bố Biên Hòa, Dinh Tỉnh trưởng tạo nên một khung cảnh hài hòa giữa lòng thành phố có quy mô vừa phải bên sông Đồng Nai thơ mộng. Đài phun nước là một tác phẩm gốm do nghệ nhân gốm Biên Hòa sáng tạo. Những con cá trong thế rồng dựng dáng vươn nước trông đẹp mắt qua các tia nước được phun lên. Quảng trường Sông Phố đã đi vào lịch sử xứ Biên Hòa từ những ngày sôi động khi quần chúng nổi dậy cướp chính quyền mùa thu năm 1945. Ngày 27.8.1945 nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể chào mừng chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của tỉnh Biên Hòa. Gần một vạn người từ các nơi kéo về đây tham dự. Trong không khí trào dâng của thắng lợi cách mạng, đồng chí Dương Bạch Mai - Cán bộ Xứ ủy Nam Kỳ đại diện Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ diễn thuyết về đường lối cách mạng của Đảng, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Đồng chí Hoàng Minh Châu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và công bố Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa gồm các đồng chí: - Hoàng Minh Châu - Chủ tịch - Huỳnh Văn Hớn - Phó chủ tịch kiêm Trưởng ban Tuyên truyền - Nguyễn Văn Long - Phụ trách cảnh sát - Ngô Hà Thành - Phụ trách quốc gia tự vệ cuộc (Công an tỉnh) - Nguyễn Văn Tàng - Phụ trách Ban Quản trị tài sản quốc gia tỉnh Kết thúc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ. Hơn một vạn người thay mặt cho 15 vạn đồng bào trong tỉnh Biên Hòa giơ cao nắm tay tuyên thệ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, tài sản, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do cho tổ quốc. Kết thúc cuộc mít tinh, quần chúng hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Việt Minh muôn năm”. Cuộc mít tinh kết thúc, hàng vạn đồng bào tuần hành biểu dương lực lượng. Đoàn người cuồn cuộn lẫn trong cờ hoa, biểu ngữ thật hào hùng. Cả thị xã Biên Hòa như bừng tỉnh hồi sinh sau bao năm tháng bị kẻ thù kìm kẹp, thống trị. Quảng trường Sông Phố tồn tại trong lòng người dân Biên Hòa như một biểu tượng của sự chiến thắng, vẫn còn đâu đó khí thế hân hoan của mùa thu Cách Mạng Tháng Tám năm 1945. Một thế kỷ trôi qua với bao sự thay đổi. Đài phun nước (công trường Sông Phố) vẫn còn đó, góp phần tô điểm làm đẹp thành phố, là niềm tự hào của người dân Biên Hòa. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai

Đồng Nai 4337 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm Chiến thắng Đồng Xoài

Di tích Địa điểm Chiến thắng Đồng Xoài tọa lạc tại phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Đầu năm 1965, sau chiến thắng Bình Giã và sự sụp đổ của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đã có bước phát triển mới. Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở Chiến dịch Phước Long – Đồng Xoài, Đồng Xoài được chọn là chiến trường trọng điểm của chiến dịch. Để chuẩn bị cho chiến dịch, công tác hậu cần được chuẩn bị chu đáo. Nhân dân tích cực đóng góp sức người, sức của, tập trung đảm bảo dân công, lương thực, thực phẩm…Có thể nói, những ngày chuẩn bị cho Chiến dịch Đồng Xoài, cả rừng núi Phước Long ngày đêm không ngủ. Tiếng chày giã gạo, ánh đuốc lồ ô, tiếng bước chân, tiếng nói, tiếng cười dân công…tất cả đã tạo nên bức tranh hoàn thiện về toàn dân làm hậu cần, toàn dân kháng chiến của đồng bào các dân tộc vùng rừng núi miền Đông Nam Bộ. Trực tiếp tham gia trận đánh tại hướng chiến lược Đồng Xoài là các Trung đoàn 1 (Q761), Trung đoàn 2 (Q762), Trung đoàn 3 (Q763) thuộc Sư đoàn 9 chủ lực… Nhiều chiến sĩ viết khẩu hiệu lên nón, lên báng súng nội dung: “Quyết tử giải phóng Đồng Xoài”, “Bị thương nặng không kêu la, bị thương nhẹ không rời trận địa” hoặc “Quyết tâm dứt điểm Đồng Xoài, không dứt điểm Đồng Xoài không về”. Trận đánh chi khu Đồng Xoài diễn ra trong 3 ngày, bắt đầu từ ngày 09/6/1965 đến ngày 12/6/1965, ta hoàn thành nhiệm vụ đánh, tiêu diệt chi khu Đồng Xoài. Chiến thắng Đồng Xoài cùng với chiến thắng Bình Giã, Ba Gia đã góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và đã “thêm một trang vẻ vang vào lịch sử đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chống cuộc chiến tranh của Đế quốc Mỹ xâm lược”. Di tích Địa điểm Chiến thắng Đồng Xoài được xây dựng năm 2005 với tổng diện tích 16.932,88m2, gồm các hạng mục công trình: Tượng đài chiến thắng, tranh phù điêu, nhà trưng bày lưu niệm, hệ thống cây xanh, đài phun nước…Một phần lịch sử hào hùng của Chiến dịch Phước Long – Đồng Xoài đã được tái hiện ở tượng đài với hình tượng 3 chiến sĩ trong tư thế hiệp đồng tác chiến, xông lên chiến đấu đã lột tả được tinh thần đấu tranh quả cảm. Phía sau tượng đài, 2 bức phù điêu minh họa khí thế của trận đánh Đồng Xoài rực lửa năm xưa bằng việc tái hiện sinh động toàn cảnh quá trình công tác chuẩn bị mọi mặt và diễn biến tấn công, thời khắc chiến thắng của quân và dân ta. Với những giá trị lịch sử to lớn, di tích Địa điểm Chiến thắng Đồng Xoài được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 12/12/2014. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 4144 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Nhà Lao Tân Hiệp

Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 12068 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 9872 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Đình Tân Lân

Đình Tân Lân nằm trên đường Nguyễn Văn Trị, thuộc địa phận phường Hòa Bình, TP Biên Hòa. Từ khi xây dựng, nhân dân lấy tên gọi của thôn là Tân Lân để đặt cho đình. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tên địa phương nhiều lần thay đổi nhưng tên đình vẫn tồn tại đến ngày nay. Tương truyền, nguyên thủy đình Tân Lân là ngôi miếu nhỏ ở thành Kèn, do dân làng dựng lên từ thời vua Minh Mạng để tỏ lòng ngưỡng vọng Trấn Biên đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên, người có công lớn trong việc khai phá đất đai và mở mang thương mại vùng Đồng Nai - Gia Định. Sau hai lần dời chuyển (vào năm 1861 và 1906), ngôi đình ở vị trí hiện nay. Mặt tiền đình hướng ra sông Đồng Nai lộng gió. Kiến trúc đình theo kiểu chữ tam gồm ba gian: tiền đình, chánh điện và hậu cung nối tiếp nhau. Chánh điện được bài trí các ban thờ, trang trí các hoành phi, câu đối, bao lam bằng gỗ trên các hàng cột bằng gỗ lim lớn được chạm khắc tinh tế, có giá trị nghệ thuật. Phần mái tiền đình là cả một công trình nghệ thuật đặc sắc với những mảng tranh gốm sứ hàng trăm tượng người và vật thể hiện các điển tích sinh động. Hậu cung được chia thành ba gian, chính giữa thờ Tiên Sư, hai bên thờ Tiền Thứ Việt Nam và Tiền Thứ Trung Hoa. Đối tượng thờ chính trong đình là vị đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên. Bệ thờ chánh điện trang nghiêm với tượng thần được tạo tác chân phương nhưng uy nghiêm trên ngai sơn son thếp vàng. Chung quanh có bài trí những linh thú bằng đồng đứng chầu. Trước bàn thờ thần là bàn hội đồng và hai bộ bát bửu bằng đồng. Hai gian bên chánh điện bố trí bàn thờ thờ tả và hữu ban. Dọc tường tả hữu có các bệ thờ thái giám, hậu hiền, bạch mã và tiền hiền. Trần Thượng Xuyên nguyên là Tổng lãnh binh ba châu Cao - Lôi - Liêm dưới triều Minh (Trung Hoa). Năm 1679, Tổng binh trấn thủ các địa phương thủy lục ở Long Môn, thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) là Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn; cùng Tổng Binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm và Trần Thắng Tài (tức Trần Thượng Xuyên) và phó tướng Trần An Bình đem binh biền và gia quyến trên 3.000 người, trên 50 chiến thuyền vào cửa biển Tư Dung và cửa Đà Nẵng xin các chúa Nguyễn cho tị nạn trên đất Việt. Đây là nhóm người Hoa trung thành với nhà Minh, không chịu thần phục nhà Thanh nên đã nổi dậy phất cờ "bài Mãn phục Minh" nhưng bất thành. Thấy họ lâm vào thế cùng lực tận, chúa Nguyễn đã chấp thuận cho phép họ nhập cư... Chúa Nguyễn Phúc Tần "... bèn khiến đặt yến tiệc đãi họ, an ủi, khen ngợi, cho các tướng lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới, khiến vào ở đất Đông Phố để mở mang đất ấy. Họ được các tướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn, binh thuyền tướng sĩ Long Môn của Dương Ngạn Địch, tiến vào cửa Lôi Lạp, theo cửa Đại, cửa Tiểu, đến định cư ở Mỹ Tho, binh lính tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình tiến vào cửa biển Cần Giờ rồi lên định cư ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai (Biên Hòa ngày nay)". Cùng nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thượng Xuyên chiêu tập thương nhân người Hoa kiến thiết phố xá, tạo lập các cơ sở thương mại mà thương cảng Nông Nai đại phố (Cù lao Phố) một thời được ví như "xứ đô hội" phồn thịnh bậc nhất phương Nam lúc bấy giờ. Trần Thượng Xuyên là một trong những người có công lớn trong việc khai phá và xây dựng vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Về hoạt động quân sự, Trần Thượng Xuyên là một dũng tướng thao lược nhiều lần cầm binh, giữ an bờ cõi phía Nam, mở rộng biên cương nước Việt. Trần Thượng Xuyên mất ngày 23-10 âm lịch khoảng năm 1720 (Canh Tý). Ghi nhớ công lao của Trần Thượng Xuyên, nhà Nguyễn ban phong danh hiệu cao quý "Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại công thần bất tuyệt" (nghĩa: họ Nguyễn làm vua, họ Trần làm tướng, công khanh đời đời không dứt), được vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc phong "Thượng đẳng thần". Nhiều nơi ở Nam bộ, người dân đã lập đền thờ ông, tôn làm bậc thần linh của xứ sở. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 5353 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Lăng mộ Trịnh Hoài Đức

Lăng mộ Trịnh Hoài Đức tọa lạc tại khu phố 3 phường Trung Dũng thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Được Bộ Văn hóa -Thông tin - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 27 tháng 12 năm 1990. Dưới thời Nguyễn lăng mộ Trịnh Hoài Đức thuộc thôn Bình Trúc, dinh Trấn Biên. Thời Pháp thuộc được đổi thành Bình Trước, thuộc quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa. Năm 1938 lăng mộ Trịnh Hoài Đức được trường viễn Đông Bác Cổ xếp là di tích. Người dân địa phương quen gọi là “lăng ông” có rất nhiều ngôi mộ cổ được xây bằng đá ong tô hợp chất, nhiều người cho rằnng, trước kia đây là khu mộ của họ tộc Trịnh Hoài Đức. Các ngôi mộ đều xây theo lối hình voi phục, mặt bằng dạng khối hình chữ nhật; các bia đá khắc chữ Hán hướng về phía tây Nam, tường phủ rêu xanh. Trong toàn khu mộ họ Trịnh, mộ Trịnh Hoài Đức nổi bật lên bởi quy mô kiến trúc, có lẽ đây là chủ ý của những người lập mộ trong nguyên tắc của người xưa về dòng họ. Trước năm 1975 đáo lệ hàng năm vào lễ thanh minh, con cháu Trịnh Hoài Đức từ các địa phương khác đến cúng viếng với nghi lễ trang trọng. Về sau có lễ do một số con cháu trong thân tộc họ Trịnh đã lớn tuổi hay lưu lạc mà các lễ viếng không còn duy trì như trước. Năm 1998 nhân kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai lăng mộ Trịnh Hoài Đức được trùng tu tôn tạo, kiến trúc mộ ban đầu được bảo tồn nguyên thủy, xung quanh có vòng thành kiên cố. Phía sau mộ có bức tường nhô cao, nối dạng thành hình bầu dục lượn sóng. Trên bức tường có khắc dòng chữ Hán tựa như bài thơ ca ngợi tài đức của Trịnh Hoài Đức nhưng lâu ngày đã bị mờ, không còn đọc được, hai bên trang trí hình hai đầu rồng cách điện. Hiện nay bức tường này được trang trí hình long ẩn vân. Phía trước cửa vào mộ có tấm bình phong lớn, ghi khắc tiểu sử và sự nghiệp của Trịnh Hoài Đức. Trên những cột vuông nối các bờ vòng thành trước mộ khắc những câu đối chữ Hán, nội dung chủ yếu nói về sử học về sự uyên bác bình diện nghiên cứu của Trịnh Hoài Đức. Trong vòng thành là thành tố chính của kiến trúc, gồm hai phần: Mộ: một của Trịnh Hoài Đức và một của chánh thất phu nhân, người họ Lê. Cấu trúc mộ giống nhau, hình voi phục, xung quanh có gờ hình móng ngựa, phía trước mỗi phần mộ đều có bia đá, khắc chữ Hán; chung quanh trang trí bởi các đường hồi văn, biểu tượng âm dương, phía dưới đắp nổi dạng chân quỳ. Nội dung các bia ở hai phần mộ Trịnh Hoài Đức nêu vắn tắt các danh, chức, phẩm, hàm mà Trịnh Hoài Đức được ban tặng, cùng người vợ của ông; Bia: còn ghi rõ thời gian là tháng 11 năm Ất Dậu, con là Trịnh Thiên Lễ Nhiên, Trịnh Thiên Nhiên Bảo, Trịnh Thiên Bảo cùng lập bia. Trịnh Hoài Đức một tài năng lớn, một nhân cách lớn đã góp phần đặt nền móng cho một vòng hào khí Đồng Nai - Văn hóa Đồng Nai, là niềm tự hào của người Đồng Nai. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai

Đồng Nai 7124 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đình An Hoà Đồng Nai

Di tích Đình An Hòa là một ngôi đình có lịch sử lâu đời khi được xây dựng từ cuối thế kỉ 18, tọa lạc tại xã An Hòa, huyện Long Thành, bên bờ sông Đồng Nai. Đình An Hòa được nhân dân trong làng dựng năm 1792, vốn là ngôi miếu nhỏ nằm bên tả ngạn sông Đồng Nai, thờ Thành Hoàng bổn cảnh. Qua thời gian, đình An Hòa đã có dấu hiệu xuống cấp và được tiến hành trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào các năm 1944, 1953, 1994 và 2009. Hiện nay đình tọa lạc trong khuôn viên rộng gần 3 ngàn m2. Ngoài các giá trị phi vật thể và nghệ thuật chạm khắc gỗ, đình còn có giá trị tiêu biểu về quy mô kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của đình làng Nam bộ thế kỷ XVIII ở Đồng Nai. Đình bảo tồn khá nguyên vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc, không chịu ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa như một số ngôi đình khác trên địa bàn. Theo đó, tiền đình nhìn ra sông Đồng Nai đón gió lành. Mặt bằng kiến trúc đình được bố trí dạng chữ Công, gồm Khu chánh điện, Nhà tiền bối và Nhà khách. Ngoài ra đình còn có Nhà võ ca được dựng biệt lập ở phía trước đối diện với khu Chánh điện. Đây cũng là nơi diễn ra các hoạt động diễn xướng nghệ thuật, múa lân - sư - rồng trong các buổi lễ đình. Các hạng mục kiến trúc đình đều có kiểu nhà tứ trụ (nhà vuông) và nhà xiên chính bằng kỹ thuật ghép mộng truyền thống tạo ra bộ khung sườn vững chắc, có tính chịu lực cao. Mái đình lợp ngói âm dương và vảy cá, nền lát gạch Tàu. Bờ nóc mái trang trí họa tiết rồng chầu mặt trời, cá chép hóa rồng bằng gốm men xanh biểu tượng của mây mưa, sấm chớp, thể hiện ước vọng mưa thuận gió hòa, được mùa, mọi việc hanh thông… Đình An Hòa là ngôi đình hiếm hoi giữ được nét kiến trúc cùng nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh xảo các họa tiết, đề tài như: rồng ẩn mây, cá vượt long môn, cúc, mai, dơi ngậm quả, sóng nước…trên hệ thống đầu kèo, xà ngang, cửa võng và các trang thờ. Điều này cũng biểu trưng cho ước mong mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, cuộc sống yên bình của cư dân nông nghiệp, chài lưới làng Bến Gỗ. Trước năm 1945, đình là trụ sở hành chính của xã, thôn, nơi tổ chức các hoạt động cộng đồng. Sau khi miền Nam giải phóng, đình trở thành nơi hội họp và tổ chức các sinh hoạt văn hóa cộng đồng do Ban Quý tế xã An Hòa quản lý. Theo Ban Quý tế đình, trải qua những thăng trầm thời cuộc, biến động của đời sống, các hiện vật của đình cơ bản vẫn được gìn giữ, bảo vệ nhưng một số cổ vật cũng bị mất, thất lạc. Hàng năm, vào rằm tháng 8 âm lịch lại diễn ra lễ cúng Thần Thành Hoàng bổn cảnh, chư vị thần linh với ước mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Vào ngày 21/1/1989, di tích đình An Hòa đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 4784 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Toà Hành chánh Long Khánh Đồng Nai

Di tích Tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh tọa lạc trên đường Cách mạng tháng Tám, phường Xuân An, thị xã Long Khánh, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 16-11-1988. Tòa Hành chánh Long Khánh có tổng diện tích 9.000m2, xây dựng năm 1965 theo lối kiến trúc kiểu Pháp, bao gồm một tầng trệt và một tầng lầu. Đây là trụ sở làm việc cao nhất của Mỹ ngụy ở tỉnh Long Khánh thời bấy giờ. Tháng 3-1975, Mỹ - ngụy cho xây dựng tuyến phòng thủ chiến lược Phan Rang - Xuân Lộc - Tây Ninh nhằm ngăn chặn bước tiến của quân ta theo cửa ngõ Đông - Bắc vào Sài Gòn. Tòa Hành chánh Long Khánh được chọn làm trung tâm điều khiển mọi hoạt động quân sự của tuyến phòng thủ này. Quán triệt tư tưởng của Bộ Chính trị Trung Ương Đảng, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Xuân Lộc giải phóng thị xã Long Khánh, phá tan tuyến phòng thủ chiến lược của địch, tiến về giải phóng Sài Gòn. Ngày 9-4-1975, chiến dịch bắt đầu được 5 tiếng đồng hồ thì tại Tòa Hành chánh Long Khánh diễn ra trận đánh lớn. Các đồng chí Phạm Lê Cảnh, Nguyễn Văn Trọng, tiểu đoàn 5; Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Minh Đức, tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 266 thuộc mũi xung kích sư đoàn 341 do đồng chí Trần Văn Trân chỉ huy đánh từ hướng Bắc thị xã xuống đã cắm cờ "Quyết chiến quyết thắng" lên đỉnh cột cờ trên lầu 1 Tòa Hành chánh. Đây là chiến thắng có tính chất bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt Nam và là niềm tự hào của người dân Long Khánh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, tỉnh Long Khánh biên chế thành huyện Xuân Lộc. Tòa Hành chánh được sửa chữa lại, trở thành trụ sở làm việc của Uỷ Ban Nhân Dân huyện Xuân Lộc. Năm 1991, huyện Long Khánh được tách ra từ huyện Xuân Lộc, Tòa Hành chánh trở thành trụ sở làm việc của Uỷ Ban Nhân Dân huyện Long Khánh. Năm 2004, Tòa Hành chánh được giao cho Phòng Văn Hoá Thể Thao-Thông Tin thị xã Long Khánh quản lý và sử dụng: Tầng trệt làm thư viện lưu trữ tư liệu phục vụ bạn đọc, tầng lầu làm phòng trưng bày truyền thống với 176 tài liệu, hiện vật. Hàng năm thu hút khoảng 500 khách tham quan, nghiên cứu, học tập. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 7023 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa